Wednesday, 9 July 2008

96 Năm Điều Căn Bản Nuôi Dạy Thanh Thiếu Niên (2)




Dạy con con chẳng nghe lời
Con nghe ông Hễnh đi đời nhà con



Hướng dẫn và đặt giới hạn

Các em cần được căn dặn một số quy luật trong gia đình một cách xây dựng và rõ ràng. Những giới hạn này nhằm duy trì sự an toàn, bảo vệ những giá trị đạo đức gia đình cũng như gia tăng khả năng và mức độ trưởng thành.

Trong nhiểu cuộc phỏng vấn, các em đều đồng ý phụ huynh nên đặt những quy luật gia đình nhưng không đồng ý về mức độ giới hạn. Thí dụ: các em đồng ý không được ngủ đêm ở nhà những bạn khác nếu không có sự đồng ý của Cha Mẹ nhưng lại muốn nếu phải trở về nhà thì về lúc 11 giờ đêm thay vì 10 giờ như Cha Mẹ mong muốn.

Phụ huynh nên kết hợp quy định gia đình với tấm lòng rộng mở, cho phép các em đưa ra ý kiến đóng góp khi cần thiết và không nên cứng nhắc. Ngoài ra cũng nên giải thích lý do tại sao phải đưa ra những quy định và cần nhấn mạnh rằng những giới hạn đặt ra vì muốn bảo vệ, hướng dẫn con mà thôi.

Quy định đặt ra phải cương quyết nhưng cũng phải linh động. Một số về an toàn cho con cái nên cương quyết như không được ra xa lộ, không được lái xe ban đêm trong vòng một tháng đầu mới có bằng lái xe … còn ngoài ra những quy định khác nên gia giảm và linh động dựa trên khả năng khôn ngoan hay tính độc lập của con cái. Nếu một em muốn đi chơi tới 12 giờ đêm trong khi quy luật gia đình là 10 giờ thì hãy yêu cầu em nêu ra lý do, ý thức được những rủi ro và phương cách tự bảo vệ. Nếu gia đình sống trong một thành phố an ninh, luật lệ có thể được nới lỏng hơn.

Cha Mẹ cũng nên học phương cách thuyết phục. Ở nhà trường Mỹ các em được học cách đọc ý nghĩa của xác suất thống kê nên Cha Mẹ cần có những con số để nói chuyện với con cái.

Thí dụ một em sắp tốt nghiệp trung học đi dự prom – một loại party trong dịp ra trường trung học – cần được Cha Mẹ cho biết rằng: trong những đêm tổ chức prom, số lượng thanh thiếu niên chết do uống rượu lái xe là 62% trong khi lực lượng thanh thiếu niên của toàn dân số chỉ là 10% (Hội Các Bà Mẹ Chống Uống Rượu Lái Xe) và căn dặn con không nên lái xe hay phải rất cẩn thận khi ngồi trên xe của các bạn khác; tốt hơn nên dặn Cha Mẹ đưa đón. Những con số nêu trên sẽ gìúp phụ huynh thuyết phục chúng hơn là áp đặt mệnh lệnh.

Khuynh hướng chung ngày nay là các em ngày càng chống đối những giới hạn của Cha Mẹ. Sau những “trận chiến” kéo dài phụ huynh thường mỏi mệt và buông xuôi thay vì phải tìm một phương cách khác.

Hãy biết chọn “trận địa” – nghĩa là chọn chiến trường để giao tranh. Trong “cuộc chiến tranh trường kỳ” với các thanh thiếu niên, phụ huynh nên chọn những mục tiêu quan trọng, Hãy chỉ nhắc nhở vừa phải về vi phạm thời khóa biểu, nhuộm tóc xanh đỏ … trong khi phải cứng rắn trong vấn đề uống rượu lái xe, dùng ma túy. Đừng vội đưa ra những biện pháp kỷ luật. Mỗi lần trừng phạt con cái là một thất bại của phương pháp giáo dục đã đưa ra.

Làm gương và Hướng dẫn

Cha Mẹ ảnh hưởng lên con cái qua hành động và lời nói, do vậy, họ trở thành mẫu mực để con cái noi theo. Những mẫu mực này ảnh hưởng từ cách suy nghĩ, phương pháp giữ gìn sức khoẻ đến việc chọn bạn, quan điểm chính trị, tôn giáo của con em. Đã có những thanh niên khi chọn bạn gái được Mẹ dạy rằng: cần phải để ý cả đến Mẹ của bạn gái, bà Mẹ thế nào thì con gái bà ấy trong tương lai sẽ khá giống như vậy.

Về phiá Cha Mẹ, hãy cẩn thận khi có mặt con cái. Một hành động thiếu kính trọng của người chồng đối với vợ mình trước mặt con có thể làm gương xấu cho đứa con trai sau này khi em đóng vai trò người chồng. Cũng thế, các em gái sẽ “copy” (sao chép) hành động và lời nói của người Mẹ khi em lập gia đình.

Vai trò hướng dẫn của Cha Mẹ cũng rất quan trọng. Khi con cái vươn ra những thế giới rộng lớn hơn thì kiến thức của Cha Mẹ cũng nên được mở rộng để có thể giúp đỡ hiệu quả và gây được niềm tin cũng như sự kính phục nơi các em. Muốn vậy Cha Mẹ phải nhậy cảm tiên đoán nhu cầu của chúng.

Một em đang lưỡng lự phải lựa chọn giữa hai trường trung học gần nhà, phụ huynh hãy tìm hiểu và cung cấp thêm thông tin cần thiết giúp em quyết định. Khi đó, các em cảm thấy Cha Mẹ vẫn còn là chỗ dựa cho mình và phụ huynh cũng có cảm nghĩ rằng mình còn giúp ích được cho con cái; do vậy phát triển một mối tương quan tin cậy giữa hai thế hệ.

Một em khác sắp ra trường đại học, Cha Mẹ cần phải giúp em ý kiến về xin việc làm, cách thức thanh toán món nợ khi đi học hay những nhu cầu di chuyển chỗ ở khác.

Cha Mẹ cần thu lượm những thông tin liên quan đến các vấn đề của con cái và quan trọng hơn là giúp các em tìm kiếm cũng như đánh giá được những thông tin đó.

Cung cấp và Hỗ trợ

Cha Mẹ nào cũng mong muốn cung cấp cho con cái đầy đủ không những về phương diện vất chất mà còn cả về phương diện tinh thần. Tuy nhiên nhiều gia đình do hoàn cảnh tài chánh bị giới hạn không cung cấp được cho con cái những hoạt động sau trường học (học võ, học vẽ, học nhạc … ) và nhiều khi không hiểu được guồng máy giáo dục tại Hoa kỳ hoạt động ra sao nên không giúp được con cái một cách hiệu quả.

Điều cần thiết nhất là không nên tự cô lập với cộng đồng. Hãy giúp con em tìm những mối quan hệ hai chiều – giúp đỡ và được giúp đỡ, đóng góp và được nhận lại – ở các tổ chức tôn giáo (nhà thờ, chùa chiền), trường Việt ngữ … Khi tham gia vào những sinh hoạt này, các em được giám sát nhiều hơn và Cha Mẹ nhận được nhiều thông tin về con mình hơn và nếu có vấn đề nảy sinh cũng được sự giúp đỡ của cộng đồng nhiều hơn.

Ý thức cộng đồng cũng nên được lưu ý trong vấn đề chọn trường học và chọn lớp học, những lớp Honors hay AP là những lớp mà phần lớn là những em chăm ngoan. Do vậy phụ huynh biết rằng khi học những lớp AP con em mình sẽ có bạn tốt. Nếu em đang học trung học và có bạn mới, phụ huynh nên đặt câu hỏi, “Bạn đó học chung với con lớp nào?”

Những bạn trẻ là những người có rất nhiều năng lượng nên nếu phụ huynh không chọn đúng chỗ cho các em tiêu thụ năng lượng đó thì tất nhiên các em sẽ tìm đến những nơi chốn khác mà chúng ta không thể kiểm soát được. Môi trường xấu sẽ gặp bạn xấu. Hư hỏng bắt đầu từ đây. Do vậy, cung cấp một môi trường hoạt động lành mạnh là bổn phận của Cha Mẹ.

Nhiệm vụ của phụ huynh dường như khó khăn. Xin đừng nản lòng, mọi gia đình và mọi thởi đại đều phải đối phó với những vấn đề tương tự do tuổi trẻ gây ra. Ngay trong thế kỷ 13, Matthew Paris, một nghệ sĩ, và cũng đồng thời là một nhà Sử học Anh đã than thở, “Thế giới đang trải qua những thời điểm khó khăn. Thanh thiếu niên ngày nay không nghĩ đến gì khác ngoài bản thân họ. Họ không có sự kính trọng Cha Mẹ và những người già cả. Họ mất kiên nhẫn với tất cả những kỷ luật bản thân: họ nói như là chỉ có họ biết mọi sự trên đời.” Trải qua 8 thế kỷ, những lời phàn nàn vẫn như còn mới và chúng ta không cô đơn trong vấn đề này.





95 Năm Điều Căn Bản Nuôi Dạy Thanh Thiếu Niên (1)




Đánh con mình dạy con láng giềng


Sau khi nghiên cứu những em bị lao vào vòng tù tội, các nhà giáo dục nhận ra rằng con hư một phần là do lỗi của Cha Mẹ. Và thay vì tập trung vào các em, họ đổi hướng qua giáo dục các phụ huynh.

Tiến sĩ A. Rae Simpson của đại học Harvard trong bản báo cáo “Raising Teens” đã đưa ra những phương thức chung nhằm giúp Cha Mẹ hiểu rõ hơn nhiệm vụ của mình.

Sau đây là lượm lặt vài ý chính của chương “Năm Điều Căn Bản Nuôi Dạy Thanh Thiếu Niên” (The Five Basics of Parenting Adolescents) và được thêm thắt những thí dụ cho phù hợp với cộng đồng chúng ta.

Yêu thương và gần gũi

Mỗi khi có dịp ôm hôn con cái xin phụ huynh đừng ngần ngại. Cô con gái mua hoa tặng Mẹ nhân ngày Mother’s Day thật sự mong đợi Mẹ sẽ ôm hôn mình. Đửng ngại ngùng bỏ lỡ cơ hội biểu lộ tình cảm cao quý với con cái.

Một em trai rửa xe cho Ba xong, em muốn được nghe lời cảm ơn và khen ngợi. Hãy cho con cái những lời khích lệ. Chúng xứng đáng được khuyến khích và tưởng thưởng.

Các bậc làm Cha Mẹ nên tìm dịp gần gũi khi có thể như cùng tham dự lễ nghi tôn giáo, cùng ăn bữa tối, cùng vui chơi… Hiện diện bên cạnh con cái thường xuyên là căn cước của phụ huynh. Nếu không gần gũi con cái thì người khác – có thể là kẻ xấu – sẽ thay thế chỗ đứng của Cha Mẹ trong ngay trái tim con mình.

Khi con cái bước vào tuổi thanh thiếu niên, phụ huynh nên trông đợi các em sẽ mưu tìm thế đứng độc lập hơn và gia tăng sự phê bình người lớn. Hãy coi đó như một diễn tiến bình thường của lứa tuổi – giống như các em bé 5, 6 tháng bắt đầu mọc răng thì 14, 15 tuổi bắt đầu … tranh luận. Khi các em còn bé Cha Mẹ đã từng đưa tay nâng đỡ lúc chúng tập đi thì bây giờ cũng nên giúp chúng biết bày tỏ quan điểm và bãn cãi sao cho đúng. Điều căn bản nhất là phụ huynh phải học phương pháp trao đổi ý kiến, cho phép các em biểu lộ quan điểm Đừng coi lý luận trái ngược là hỗn hào, vô lễ; cũng đừng diễn dịch đó là “cãi lại.”

Sự thay đổi – và cũng là một thách đố – cho Cha Mẹ là: trong khi cố gắng gần gũi giúp đỡ thì cũng ý thức được những nỗ lực tạo dựng thế đứng độc lập của con cái; các em thường biểu lộ thái độ xa cách về tình cảm, rút lui khỏi những sinh hoạt gia đình, không muốn chia sẻ những thông tin cá nhân (điểm tại trường học, bank statement … ) Vào độ tuổi này, khi Cha Mẹ cố gắng nhích lại gần thì con cái dường như hăm hở bay ra xa hơn.

Kiên nhẫn lắng nghe những lo âu và biểu lộ lòng quan tâm tới vấn đề các em đang nói tới là bài học đầu tiên của Cha Mẹ. Hãy cư xử với con như người lớn và biết cách góp ý nhằm chứng minh lòng yêu thương của mình. Để làm được chuyện này, Cha Mẹ cần biết cách thuyết phục, tìm hiểu thông tin và học những kỹ năng mới để theo kịp con cái.

Trong nhiều cuộc phỏng vấn, khi được hỏi: em có cần sự chú ý và hướng dẫn của Cha Mẹ không thì các em đều trả lời rất cần. Vâng, con cái rất cần Cha Mẹ cho dẫu chúng đang lần mò đi tìm một thế giới độc lập và tập tành quyết định những vấn đề của riêng mình.

Nếu Cha Mẹ không yêu thương và gần gũi đủ, sợi dây liên lạc giữa hai thế hệ bị thách đố. Cha Mẹ cảm thấy bất lực không dạy được con cái trong khi các em cảm thấy cô đơn trước những vấp ngã khi tập tành làm người lớn. Và chính khi vấp ngã, các em cần Cha Mẹ. Thế giới chung quanh các em đang thay đổi nhưng xin hãy giữ lại tình yêu thương cho chúng.

Quan sát và theo dõi

Cha Mẹ cần cho các em biết rằng tất cả những hoạt động của chúng như học hành, làm việc, chơi với bạn bè … đều được Cha Mẹ để mắt tới.

Tuổi thanh thiếu niên mang nhiều rủi ro và nguy cơ. Cha Mẹ do vậy phải học cách quan sát và theo dõi con cái. Phương cách đơn giản nhưng hiệu quả nhất là biết được “giờ này con ở đâu?” Sự hiểu biết nơi chốn hiện diện đó hạn chế rất nhiều nguy cơ dùng rượu, ma túy, hoạt động tình dục sớm, có thai, băng đảng … hay nhẹ nhất cũng là bị bạn xấu ảnh hưởng. Việc theo dõi, kiểm soát phải cân bằng với việc tôn trọng quyền riêng tư của chúng.

Sự theo dõi không gây khó chịu cho con cái. Về mặt tích cực, nó chứng tỏ sự quan tâm của Cha Mẹ và giúp ảnh hưởng lên quyết định chọn bạn cũng như phát triển khả năng giao tiếp xã hội, đồng thời cũng khuyến khích sự can dự của những người lớn khác như thầy cô giáo, cố vấn trường học … vào việc dạy dỗ con em mình.

Hãy quan sát những thay đổi về hành vi, lắng nghe con tâm sự và trao đổi thông tin với những người khác. Một em trai trước kia hay nói cười bỗng dưng đăm chiêu trầm lặng, đi học xong nhủi ngay vào phòng riêng thì phụ huynh phải đặt câu hỏi và tìm hiểu lý do.

Hình thức bên ngoài cũng nên để ý. Một em gái ăn diện hơn thường lệ có thể có bạn trai; một em trai chỉ mặc quần áo một mầu sắc hay chỉ một loại quần áo có thể là băng đảng. Dĩ nhiên các em thường hay chối cãi nhưng đó là những dấu chỉ nên được Cha Mẹ nghi ngờ. Sau đây là một số lãnh vực cần được người lớn đặc biệt quan tâm:

– Điểm học

Nếu phụ huynh theo dõi điểm học (grade) của thanh thiếu niên thì thông thường các em sẽ giữ việc học tập tốt và GPA sẽ cao hơn. Khi GPA của con em đi xuống phải tìm hiểu lý do ngay. Có phải là lý do sức khoẻ, bài quá khó không hợp trình độ, ham chơi, bạn xấu… ?

Hãy coi chừng, GPA giảm có thể do hâu quả của một vấn đề ngoài phạm vi học hành. Đó là tiếng chuông báo động sớm nhất cho phụ huynh.

Ngoài ra, phụ huynh nên đóng góp công sức vào trường học, tham dự vào Hội Cha Mẹ – Giáo chức – Học sinh (PTSA), giữ liên lạc tốt với thầy cô giáo, huấn luyện viên thể thao và cố vấn trường học. Đó là những nguồn giúp đỡ rất tích cực cần tận dụng đầu tiên.

– Sinh hoạt sau giờ học

Khoảng 40% thời gian của thanh thiếu niên dành cho những hoạt động thiếu tính xây dựng và không được kiểm soát. Biết “giờ này con ở đâu” sau giờ học chính thức tại trường giúp con cái hạn chế những áp lực xấu từ bạn bè. Một con số đáng suy nghĩ: 75% giới trẻ báo cáo không có những hoạt động được Cha Mẹ sắp xếp sau giờ học.

Buông lỏng con cái để chúng muốn làm gì thì làm sau giờ học sẽ chỉ mang tời những hậu quả bất lợi. Một thời khoá biểu sau giờ học nên được nêu ra, chẳng hạn như tham gia các sinh hoạt ngoại khoá, học võ, học vẽ, làm bài tập về nhà …

– Biết bạn bè của con cái

Tìm hiểu bạn bè của con cái là một chiến lược giáo dục quan trọng. Nếu em chơi với bạn tốt, đó là dấu hiệu để chúng ta yên tâm. Khi đó hãy khuyến khích em chơi thân hơn với người bạn này. Chơi với bạn tốt sẽ hạn chế được bạn xấu.

Ngoài ra nếu các em đi làm thêm, bạn bè tại chỗ làm cũng đáng được lưu tâm.

– Các phương tiện giải trí

Nên âm thầm để mắt tới.những bài nhạc các em hay nghe, những tạp chí và chương trình TV các em thường coi. Chỉ cần mở máy TV chúng ta sẽ biết đài (channel) các em vừa mới coi xong còn lưu lại trong máy; đây có lẽ là phương pháp theo dõi sự trưởng thành của con cái dễ dàng nhất. Đối với computer, nếu có thể, nên để ý tới những websites các em hay lui tới. Các phương tiện giải trí này cho Cha Mẹ những thông tin rất hữu ích về con em mình.

(còn tiếp)




94 Giáo Dục Phổ Thông Tại Phần Lan và Hoa Kỳ






Kỳ thi PISA (Program for International Student Assessment) tạm dịch là Chương trình Quốc tế Đánh giá Học sinh được tổ chức mỗi 3 năm một lần. Trình độ học sinh 15 tuổi trong mỗi quốc gia hội viên (hay vùng lãnh thổ) sẽ được đánh giá qua cuộc khảo sát một mẫu nghiên cứu từ 4,500 đến 10,000 học sinh.

Kết quả năm 2006 cho thấy trong số 57 quốc gia tham dự, học sinh Phần lan đạt được những thành tựu đáng khích lệ: hạng nhất về Khoa học và Toán, hạng nhì về Đọc hiểu. Ngay cả những hệ thống giáo dục phổ thông nhiều ưu điểm nhất của thế giới như Đài loan, Nam Hàn, Hồng kông cũng phải nhường bước.


Ưu điểm của nền giáo dục Phần lan


Các em học sinh Phần lan có trình độ khá đồng đều – bất kể xuất thân từ trường học hay địa phương nào. Sự thành công liên tục tại các kỳ thi PISA đã lôi cuốn chú ý của các nhà giáo dục quốc tế. Họ nghiên cứu chính sách giáo dục của quốc gia 5.3 triệu dân này và tìm thấy một số điểm đáng lưu ý đã đóng góp cho thành công của học sinh tại đó.

Sau đây là một số ưu điểm chính:

– Học sinh Phần lan học chung một chương trình, nghĩa là không có lớp riêng biệt cho học sinh giỏi. Học sinh giỏi hay kém đều được học chung một lớp như nhau

– Ít bài tập về nhà (homework) hơn học sinh tại các quốc gia khác

– Phần lan có rất ít các kỳ thi tiêu chuẩn

– Trẻ em chỉ được tới trường khi đủ 7 tuổi

– Trước khi bắt đầu bậc tiểu học các em được khuyến khích phát triển giao tiếp và vui chơi trong những sinh hoạt cộng đồng chứ không bị bắt buộc lao vào học tập. Sự tương quan và hợp tác giữa cá nhân và cộng đồng được nhấn mạnh trên sân chơi.

– Học sinh thường xuyên được đánh giá, nếu em nào yếu kém sẽ được kèm cặp thêm tức thời. Không có sự xếp hạng trong lớp học và chỉ khi lên tới trung học thì mới “bị” chấm điểm mà thôi. Các em được giúp đỡ trên căn bản so sánh chính mình của ngày hôm qua với ngày hôm nay.

– Trọng tâm của giáo dục Phần lan nhắm vào đào tạo thầy cô giáo. Phải có văn bằng Cao học (Master) để trở thành giáo chức và ngành giáo dục chỉ tuyển dụng 10% sinh viên tốt nghiệp đại học xuất sắc nhất (top 10) để đào tạo thành nhà giáo. Dạy học là một ngành nghề có giá trị cao kể cả về mức lương cũng như kính trọng xã hội.

– Phần lan tập trung chú ý về nhân lực và tài chánh cho các trường trung học đệ nhất cấp hay còn gọi là trung học cơ sở (middle schools.) Họ coi đây là những năm tháng quyết định thành công của một học sinh. Sau thời gian đó, khoảng một nửa học sinh đi học nghề và một nửa khác lên trung học (high school) để được chuẩn bị kiến thức vào đại học. Sự phân chia này được đặt căn bản trên khả năng và ý thích. Những em học sinh vào trường nghề vẫn có thể theo học các đại học kỹụ thuật sau này nếu muốn.

– Giáo dục tại Phần lan hoàn toàn miễn phí, ngay cả sách giáo khoa và dụng cụ học sinh cũng được cung cấp không mất tiền.


Giáo dục Hoa kỳ so sánh với Phần lan


Nếu so sánh giáo dục đại học, Hoa kỳ có nhiều ưu thế mà một dân tộc nhỏ bé như Phần lan khó có thể so sánh được. Tuy nhiên, ở mức độ giáo dục mẫu giáo và phổ thông (K-12) Hoa Kỳ có những điểm phải nhìn về phiá Phần lan để học hỏi.

– Về Khoa học: học sinh Hoa kỳ chỉ đạt 489 điểm, so sánh với điểm trung bình là 500. Nếu tính theo số quốc gia tham dự thì học sinh Hoa kỳ đứng hạng 29/57 tức là ngay ở vị trí giữa.

Một lưu ý nhỏ ở đây: dân tộc Do thái được đánh giá là thông minh nhưng học sinh Do thái chỉ đạt được 454 điểm và xếp hạng 39/57. Brazil hiện được coi như con rồng của châu Mỹ Latin nhưng học sinh Brazil chỉ được 390 điểm và xếp hạng 52/57.

– Về Toán: học sinh Hoa kỳ đạt 474 điểm so sánh với điểm trung bình là 498, xếp hạng 25/57. Học sinh Do thái đạt được 442 điểm, xếp hạng 42/57. Học sinh Brazil được 370 điểm, xếp hạng 54/57.

Câu hỏi được đặt ra là: Giáo dục Phần lan có khả năng cung cấp những ý tưởng để cải thiện nền giáo dục phổ thông Hoa kỳ không?

Thật ra hai nền giáo dục có những khác biệt khó áp dụng.

Dân số Phần lan tương đối đồng nhất. Đa số học sinh nói tiếng Phần lan ở nhà trong khi đó theo Bộ Giáo dục Hoa kỳ có khoảng 8% học sinh Hoa kỳ không nói tiếng Anh trong gia đình, phần lớn là di dân mới nhập cư. Ngoài ra, di dân vào Hoa kỳ thuộc nhiều sắc tộc khác nhau và không đồng đều nên kéo điểm chung đi xuống.

Ngân sách giáo dục Phần lan cũng tương đối ổn định. Tất cả những trường học tại đây nhận được một quỹ tài chánh dựa trên đầu học sinh giống nhau. Ngược lại, nguồn tài chánh cho trường học tại Hoa kỳ khá phức tạp vì dựa trên nhiều yếu tố địa phương và do vậy tạo nên sự bất bình đẳng trong giáo dục. Điểm bất lợi đổ dồn vào những cộng đồng có thu nhập thấp và những gia đình nghèo muốn có một trường học tốt hơn cho con cái phải đi xa hơn hay phải sống trong những khu vực giầu có nơi mà cơ hội công ăn việc làm trở nên ít ỏi hơn.

Mục tiêu đầu tư cho giáo dục cũng khác nhau. Trong khi Phần lan tập trung nỗ lực đào tạo nhà giáo thì Hoa kỳ tập trung vào các kỳ thi đánh giá. Khuyết điểm này khiến cho các trường học đua nhau “luyện thi.” Rõ ràng trường học đã đánh mất chức năng dạy dỗ và trở nên “trung tâm luyện thi” để đứng vững trước những đe doạ cắt giảm ngân sách. Và như vậy, so sánh với Hoa kỳ, Phần lan đã có sự lựa chọn khôn ngoan hơn.


Một cách nhìn khác


Nhiều nhà giáo dục quốc tế không coi Hoa kỳ như một quốc gia có nền giáo dục giống nhau trên toàn quốc. Chính quyền tiểu bang đóng vai trò quyết định trong giáo dục mẫu giáo và phổ thông (K-12.) Thế là họ coi mỗi tiểu bang như một nhà nước độc lập trong giáo dục và xếp hạng theo tiêu chuẩn tiểu bang. Sau đây là một số quan sát được ghi nhận:

– Học sinh Massachusetts được xếp hạng cao nhất về giáo dục. Nhiều cha mẹ di dân đã vào làm những công việc nặng nhọc trong các trường đại học Massachusetts để con cái sau này được nhận vào học và được học bổng trong các trường đại học đó. Học sinh tiểu bang này rất giỏi, các em có số điểm Toán sánh ngang bằng với học sinh Nhật bản.

– Về Khoa học, học sinh Massachusetts, Minnesota, Montana, New Hampshire, North Dakota, South Dakota, Vermont và Wisconsin chỉ thua học sinh Singapore và Đài loan. Các em ở những tiểu bang trên có thứ hạng cao hơn các bạn cùng lứa tuổi ở 45 quốc gia khác.

– Học sinh ở Washington D.C và Alabama bị xếp hạng dưới trung bình.

Tuy giáo dục mẫu giáo và phổ thông (K-12) của Hoa kỳ còn nhiều khuyết điểm, Diễn đàn Kinh tế Thế giới vẫn cho rằng nền giáo dục Hoa kỳ nói chung vẫn đang dẫn đầu thế giới. Một thí dụ là cho dù Ấn độ đã đào tạo được nhiều khoa học gia và kỹ sư nhưng vẫn thua Hoa kỳ vì chỉ 40% thanh thiếu niên được vào trường trung học. Hơn nữa, không thể đánh giá cả một nền giáo dục chỉ bằng một kỳ thi như trường hợp của Do thái hay Brazil đã chứng tỏ. Mỗi nước có một mục tiêu giáo dục riêng mà một kỳ thi như PISA không thể nói lên hết được. Tuy nhiên giáo dục Phần lan ít nhất cũng cho Hoa kỳ hai bài học: muốn có một nền giáo dục phổ thông tốt, ngành giáo dục phải thu hút được những tài năng xuất sắc nhất cho mình và nên giảm bớt khối lượng các kỳ thi tiêu chuẩn cũng như đánh giá khá tốn kém ngân quỹ và mệt mỏi cho học sinh.

93 Barack Obama, Trường Học và Giáo Dục




Cả hai Cha Mẹ của TNS Barack Obama đều có văn bằng Tiến sĩ (Ph. D) – Mẹ ông là Tiến sĩ Nhân chủng học (Anthropology) và Cha ông là Tiến sĩ Kinh tế tốt nghiệp Đại học Harvard. Do vậy nền giáo dục của ông đã được gia đình coi trọng ngay từ bé. Theo dõi những trường ông đã theo học và những việc ông đã làm trong từng thời kỳ giúp học sinh trong cộng đồng một khái niệm căn bản để thành công trên đường học vấn. Câu hỏi đặt ra là: Obama đã trải qua những chọn lựa và hoạch định lộ trình học tập ra sao khi đi học?

Mục đích của bài viết nhắm vào khía cạnh giáo dục hơn là chính trị.

Punahou

Sau những năm tháng lưu lạc theo Mẹ ở Indonesia, lúc 10 tuổi Obama được ông bà ngoại đưa về Hawaii và thụ hưởng một nền giáo dục tốt nhất. Tại đây, cậu được vào học lớp năm của trường Punahou, một trường học có từ lớp mẫu giáo tới lớp 12 và là một trong những trường trung học tư thục tốt nhất Hoa kỳ. Học phí của trường niên học 08 – 09 là gần $17,000 – chưa kể chi phí linh tinh khác. Vì ông ngoại là một thương gia, bà ngoại là Phó Giám đốc một ngân hàng Hawaii địa phương nên họ có khả năng chi trả học phí cho Obama.

Trường Punahou đã đào tạo rất nhiều nhà lãnh đạo cho Hoa kỳ. Cựu học sinh trường gồm nhiều nhân vật nổi tiếng như các thống đốc Sanford B. Dole, Lawrence M. Judd, thượng nghị sĩ liên bang Hiram Bingham III, bộ trưởng John W. Gardner, chánh án liên bang Elbert Tuttle. Ít nhất 9 vị tướng lãnh thuộc đủ mọi binh chủng trong Quân Lực Hoa kỳ và ngay cả Tổng thống Cộng hoà Trung hoa Tôn Dật Tiên cũng đã học hành tại Punahou.

Ngoài ra Punahou còn đào tạo những nhân vật nổi tiếng khác như Steve Case – người sáng lập AOL; Pierre Omidyar – đồng sáng lập eBay, Carrie Ann Inaba – giám khảo cuộc thi Dancing With The Stars và Norm Chow – huấn luyện viên football của UCLA …

Theo lời kể của Obama, những ngày tháng học hành tại Punahou có những khó khăn và dằn vặt: các cô gái da trắng và Á châu không muốn hò hẹn với cậu. Hơn nữa, cạnh tranh với học sinh Á châu trong lãnh vực học vấn là điều không dễ dàng. Bơ vơ, lạc lõng, chàng tuổi trẻ tìm những câu hỏi về thân phận da màu và đôi khi đã dùng đến các chất gây nghiện.

Học xong trung học Obama quyết định theo học trường Occidental College ở Los Angeles. Trong lãnh vực học vấn, cậu đã chọn những trường ít sinh viên cùng màu da để học.

Occidental College

Đây là một trường khá nổi tiếng và phần lớn sinh viên là da trắng con nhà giầu. Sự cạnh tranh do vậy không dữ dội như ở Punahou và sĩ số sinh viên cùng màu da với cậu tương đối nhiều hơn. Tuy vậy, giống như ở trung học, Obama vẫn cho rằng mình không được đối xử công bằng. Theo lời kể của Obama, cậu đã cùng bạn bè party, uống rượu, thuốc lá và ma túy.

Tại Oxy (gọi tắt của Occidental College), Obama gặp một cô gái cùng màu da tên là Regina. Sau khi nghe tâm sự buồn bã của Obama đã khuyên rằng: cuộc sống quả thực nhiều khi không bình đẳng nhưng chúng ta có nhiệm vụ làm cho nó tốt đẹp hơn.

Nghe lời, chàng trai Obama bắt đầu tham gia biểu tình và lên tiếng công khai bênh vực người da màu. Thất vọng cá nhân được chuyển đổi thành hy vọng cộng đồng.

Quan trọng hơn, Obama bắt đầu nhận thức rằng: phải thay đổi hẳn chính bản thân mình để thành công và phải tìm một môi trường mới rộng lớn hơn. Sau hai năm theo học, Obama quyết định chuyển trường qua đại học Columbia, New York — một Ivy nổi tiếng miền Đông.

Việc dùng ma túy của Obama đã bị nhiều bạn học cũ tai Punahou và Occidental phủ nhận. Họ cho rằng Obama là học sinh khá đứng đắn, chuyên cần và có mục đích.

Columbia

Khi theo học tại đại học Columbia, Obama vẫn theo ngành Chính trị, tập trung sâu vào Bang giao Quốc tế và tạm bỏ qua một bên những cay đắng về màu da cũng như những tật xấu (uống rượu, ma túy … ) trước kia. Obama không giao thiệp với bạn bè, vùi đầu vào học hành và gần như sống cuộc đời của một “tu sĩ” để có thể thay đổi mình bằng tinh thần tích cực.

Sau hai năm “tu tâm dưỡng tính”, Obama tốt nghiệp đại học và có trong tay Cử nhân Chính trị học – một văn bằng dường như vẫn còn nhỏ bé so với mơ ước của cậu.

Đi làm

Ra trường, Obama bắt đầu làm việc cho Business International Corporation và New York Public Interest Research Group nhằm củng cố tốt hơn hồ sơ cá nhân của mình.

Mục tiêu của Obama lúc này là trường Luật Harvard vì cậu có trong tay 3 lợi thế:

– Xuất thân từ những trường nổi tiếng (Punahou, Oxy, Columbia)

– Người da màu được ưu tiên trong tuyển sinh

– Cha là cựu sinh viên bậc Tiến sĩ (Kinh tế) của Harvard. Con cháu cựu sinh viên thường được ưu tiên nhận vào do chính sách legacy

Với những biệt đãi của số phận như thế chắc Obama không trách xã hội bất công nữa!

Tuy nhiên trường Luật Harvard cũng như Yale hay Stanford không dễ vào. Obama đã phải trải qua thời gian 5 năm làm việc thực tế trước khi bước vào được giảng đường danh giá trường Luật Harvard. Lúc này Obama đã 27 tuổi. Quả thật chàng trai trẻ là người biết chờ đợi.

Một bài học rút ra ở đây: Đừng ngại lấy những “năm nghỉ xả hơi.” Hãy dùng những “years off” để đi làm việc mà củng cố (build up) hồ sơ tuyển sinh xin nhập học của mình.

Harvard Law và Harvard Law Review

Obama biết rằng học Harvard có những lợi thế rất đáng kể của mạng lưới trường. Các cựu sinh viên của các trường lớn hiện diện khắp nước Mỹ. Hãy tưởng tượng cựu học sinh hay sinh viên Pinahou, Oxy, Columbia, Harvard đồng tâm góp sức cổ động cho ông thì kết quả sẽ rộng lớn ra sao. Trường nào cũng muốn cựu sinh viên của mình làm Tổng thống. Và dĩ nhiên vị Tổng thống tân cử sau đó sẽ dẫn theo cả một phái đoàn cựu sinh viên khác vào Toà Bạch Ốc với những chức vụ khác nhau. Danh tiếng của trường nhờ vậy lan rộng rất nhanh. Cuộc chiến giữa Hillary Clinton và Barack Obama sẽ là cuộc chiến của Yale và Harvard.

Khi theo học tại Harvard, một điểm nổi bật nhất là Obama được bầu làm Chủ tịch của Harvard Law Review, một nguyệt san (8000 ấn bản) do sinh viên Luật Harvard phụ trách.

Chức vụ Chủ tịch được lựa chọn theo tiêu chuẩn cao về GPA, các bài thi viết đoạt giải cũng như các bài phê bình quyết định của toà án. Những sinh viên Luật giữ chức Chủ tịch Harvard Law Review sau đó thường dảm nhiệm khá nhiều địa vị quan trọng như Chủ tịch Tối cao Pháp viện Johns Roberts, Viện trưởng Harvard Derek Bok, Bộ trưởng Michael Chertoff, Thống đốc New York Eliot Spitzer … và rất nhiều nhân vật tên tuổi khác. Vị trí này là một dấu hiệu sinh viên sẽ toả sáng. Không ai dám nghi ngờ một tài năng như thế !!!

Bài học rút ra ở đây là khi đi học đại học đừng chỉ miệt mài cặm cụi với sách vở. Những sinh hoạt ngoại khoá có ảnh hưởng cộng đồng luôn là dịp giúp sinh viên được biết đến.

TNS Obama được thừa hưởng sự thông minh của Cha Me, sự quan tâm đến giáo dục của ông bà ngoạiỉ nhưng quan trọng hơn ông đã biết đầu tư vào giáo dục, đặt căn bản trên các trường tên tuổi – trung học cũng như đại học – và kiên nhẫn theo đuổi mục tiêu giáo dục trong từng giai đoạn cắp sách tới trường để đạt được mục tiêu học vấn cao nhất.


*Bài viết được thực hiện khi Obama đang tranh cử và chưa làm TT Hoa kỳ