
Khái niệm
Ra đời năm 1959, ACT (American College Testing) mau chóng xác định vị trí của mình so với đối thủ đàn anh lâu đời hơn là SAT (ra đời năm 1901.) Trong năm học 2006 – 2007 đã có hơn 1.3 triệu học sinh thi ACT (khoảng 46%.)
Cũng giống như SAT, các nam sinh thi thành công hơn các nữ sinh. Trong kỳ thi này, cứ khoảng 4100 học sinh dự thi thì một em được điểm tối đa 36 (so sánh với SAT thì khoảng 5,500 em mới có một em được điểm tối đa 2,400.)
Giống như SAT, ACT là một kỳ thi được ban tuyển sinh của các đại học dùng khi thu nhận tân sinh viên. Đối với hầu hết các đại học, ứng viên có thể nộp điểm thi SAT hay ACT. Để chắc chắn, nên tham khảo ban tuyển sinh của mỗi trường trước khi quyết định lấy một trong hai loại trên.
Khuynh hướng chung ngày nay là càng ngày càng có nhiều học sinh thi cả hai điểm SAT và ACT; họ so sánh điểm nào lợi hơn rồi nộp cho đại học điểm đó. Vì một số học sinh làm SAT điểm tốt hơn trong khi một số khác thì ngược lại có điểm ACT cao hơn.
Nhiều học sinh trên thế giới cũng thi vào các đại học Mỹ nên mỗi năm các kỳ thi ACT quốc tế được tổ chức 4 đến 6 lần tùy theo từng quốc gia hay vùng lãnh thổ. Riêng tại Mỹ ACT được thi 6 lần vào tháng 9, tháng 10, tháng 12, tháng 2, tháng 4, tháng 6 và đều thi vào các ngày thứ Bảy. Một số tiểu bang của Hoa kỳ không tổ chức thi ACT vào tháng 9.
Các đại học vùng Trung Tây và Nam Hoa kỳ có khuynh hướng khuyến khích học sinh nộp điểm ACT trong khi vùng Tây (bao gồm California) và Đông Hoa kỳ nghiêng về SAT.
Các học sinh lớp 10 nếu định thi ACT thường lấy “Test Plan” để xem coi đã chuẩn bị đủ và có nên lấy ACT hay không? Một câu hỏi khác: học sinh thi tốt nhất vào lúc nào? Thống kê cho thấy 55% học sinh thi ACT lần thứ hai có kết quả cao hơn lần thứ nhất và kết quả đạt mức tối ưu nếu thi lần đầu vào cuối năm lớp 11 và lần thứ hai vào đầu năm lớp 12.
Các ứng viên không thi Viết nộp lệ phí là $30 (2008) còn nếu thi thêm Viết thì $44.50. Nếu tính cả thời gian thi Viết (30 phút) thì tổng số thời gian sẽ khoảng 5 tiếng đồng hồ, kể cả giờ nghỉ ngơi. Điểm sẽ được gửi về cho các em, trường trung học và 6 đại học định nộp đơn hay các chương trình học bổng. Dĩ nhiên những kết quả điểm này sẽ được gửi trực tiếp tới các nơi yêu cầu mà không qua tay các em nhằm tạo sự công bằng và tránh trường hợp gian lận.
Khác biệt chính giữa ACT và SAT
Giữa ACT và SAT có những tương đồng nhưng cũng có hai khác biệt chính:
Thứ nhất, ACT có thêm phần Khoa học và như vậy giúp các trường đại học có thêm dữ kiện tìm hiểu và đánh giá khả năng Khoa học của học sinh. Đối với sinh viên trên đại học các môn Vật lý, Hoá học, Sinh học (Vạn vật) thường là những môn “khó thương” và đầy thách thức nên nhiều sinh viên đã bỏ học chỉ vì những môn này. Khi sinh viên bỏ học, các đại học bị xuống hạng. Chính vì vậy ban tuyển sinh các trường thường để ý tới điểm các môn Khoa học của ứng viên cho dù họ theo học các ngành về Nhân văn, Nghệ thuật.
Để có thể đạt điểm cao môn Khoa học trong các kỳ thi ACT, học sinh phải chuẩn bị kiến thức 3 năm học về những môn như Khoa học Trái đất, Vât lý, Hoá học và Sinh học … Nếu nhà trường không cung cấp đủ kiến thức trên, học sinh phải tìm cách tự ôn thi qua sách luyện thi hay các tài liệu khác.
Thứ hai, SAT là một kỳ thi dựa vào suy luận và đặt cơ sở trên năng lực, thông minh – giống như IQ test – nghĩa là nếu một học sinh giỏi, em có thể lấy SAT vào bất cứ lúc nào. Một thí dụ là Terence Tao (hiện đang là Giáo sư thực thụ dạy Toán tại UCLA) khi được 8 năm 10 tháng, Tao lấy SAT Toán và đã ghi được 760 điểm trên bậc thang 800. Trái ngược lại, ACT dựa vào chương trình giảng dạy và học sinh phải học qua mới có thể hiểu và làm được bài. Vì vậy nhiều đại học cho rằng ACT giúp đánh giá phẩm chất học sinh tốt hơn.
Kết quả kỳ thi ACT được dùng ra sao?
Các trường trung học dùng các kết quả của kỳ thi ACT để tìm hiểu các ưu, khuyết điểm và hướng dẫn học sinh đạt những kết quả cao hơn dựa theo các dữ kiện thu thập được. Đồng thời qua những thống kê và nghiên cứu về điểm, họ có thể đánh giá hiệu năng giảng dạy của các thầy cô giáo trong trường và đưa ra biện pháp cải tiến phương pháp giảng dạy. Ngoài ra họ cũng đùng ACT để sắp xếp chương trình sắp tới cho có nhiều hiệu quả hơn.
Các đại học dùng ACT cho 3 mục đích.
Trước hết, như đã được đề cập bên trên, ACT được ban tuyển sinh các trường dùng khi tuyển mộ tân sinh viên nhằm tìm kiếm nhân tài giỏi nhất trong các ứng viên nộp đơn xin học.
Kế tiếp các đại học coi ACT như một kỳ thi xếp lớp dựa vào trình độ sẵn có của tân sinh viên. Nếu ứng viên có đủ trình độ căn bản thì sẽ được lấy những lớp cao hơn còn nếu không sẽ phải lấy lại những lớp căn bản đó. Ngoài ra các cố vấn của trường cũng dùng ACT để hướng dẫn tân sinh viên như giúp chọn lớp, sinh hoạt ngoại khoá, học bổng hay các chương trình làm việc trong trường học.
Cuối cùng, các chương trình cấp học bổng hay cho mượn tiền cũng dùng ACT tiên đoán sự thành công của học sinh để quyết định. Dĩ nhiên họ không chỉ nhìn vào ACT mà còn nhìn vào nhiều lãnh vực khác để đánh giá, lượng định ứng viên. Trong nhiều trường hợp, cánh cửa các chương trình học bổng tài năng thường rộng mở cho các ứng viên có điểm ACT cao.
Các môn thi của ACT
ACT bao gồm 4 môn Anh văn, Toán, Đọc hiểu và Khoa học. Kể từ tháng 02/2005, thí sinh nếu muốn có thể chọn thêm môn Viết (Writing.)
1. Anh văn:
Thường được cho làm đầu tiên trong 45 phút với 75 câu hỏi. Học sinh nên thực hành trên nhiều bài tập, học thêm các phương pháp diễn tả cũng như cách thức sửa câu. Một phần sẽ chú ý về Văn phạm (cách dùng các dấu chấm, phẩy, hỏi chấm … , sự hoà hợp của các thì, khi nào phải viết hoa …) và phần khác là về cách dùng câu sao cho đạt hiệu quả cao và chính xác. Học sinh đọc sách nhiều thường có lợi thế trong môn thi Anh văn này.
2. Toán:
Phần thứ nhì là môn Toán. Môn này bao gồm 60 câu hỏi được làm trong 60 phút. Trong đó 14 câu dành cho Toán học sơ cấp, 19 câu cho Đại số, 23 câu cho Hình học và 4 câu cho Lượng giác. Do cấu trúc như vậy, ACT giúp các học sinh ôn tập dễ dàng hơn.
3. Đọc hiểu:
Môn này gồm 40 câu hỏi được làm trong 35 phút và đòi hỏi học sinh trước hết phải giầu có về vốn ngữ vựng của các môn học. Thí sinh được đọc một đoạn văn rồi dùng lý luận hay tìm những ý tưởng đã được đề cập một cách gián tiếp để trả lời cho bài thi. Những đoạn văn dài khoảng 1000 chữ này thường được lấy từ các tạp chí, bài báo hay sách xuất bản và bao gồm các lãnh vực như Khoa học Xã hội, Khoa học Tự nhiên, Nhân văn và Văn học.
4. Khoa học:
Gồm 40 câu hỏi trong thời gian 40 phút. Phần này gồm 7 đoạn văn và sau mỗi đoạn văn là 5 đến 7 câu hỏi. Mục đích là để tìm hiểu khả năng diễn dịch biểu đồ, phân tích các dữ kiện, mô tả các thí nghiệm và nhận xét những giả thiết mâu thuẫn về Khoa học.
5. Viết (tùy ý):
Trong khi các học sinh không thi Viết ra về thì các em ghi danh dự thi môn Viết sẽ ngồi lại thi tiếp một bài luận văn ngắn trong 30 phút. Những đề tài thường được đề cập là về các vấn đề xã hội và được 2 thầy cô giáo chấm điểm. Có khá nhiều đại học đòi hỏi các ứng viên phải nộp điểm môn Viết (Writing) – cho dù là SAT hay ACT – và các đại học của California trong hệ thống UC cũng không nằm ngoài luật lệ ấy.
Học sinh trong cộng đồng Việt nam chúng ta nếu có khả năng Khoa học nên thi thêm ACT để so sánh với điểm SAT và nộp cho đại học một trong hai điểm tốt hơn. Tuy không công bố rõ ràng nhưng nếu học sinh định theo các ngành Khoa học thì nhiều đại học rất thích học sinh nộp điểm ACT. Mặt khác, ACT cũng giúp các em củng cố kiến thức, làm quen với việc thi cử các môn Khoa học và khi học lên cao hơn sẽ góp phần chuẩn bị cho các kỳ thi cần nhiều kiến thức Khoa học như thi vào Y, Nha, Dược (MCAT, DAT, PCAT) hay Ph.D sau này.
No comments:
Post a Comment