Tuesday, 1 January 2008

36 Albert Einstein: Không Thầy ... Làm Nên








Albert Einstein là ai hẳn mọi người ai cũng đã từng nghe đến tiếng tăm. Ông là cha đẻ ra thuyết Tương đối, đoạt giải thưởng Nobel về Vật lý và đã được tạp chí Time bầu là “Nhân vật của thế kỷ.”

Được bầu là “Nhân vật trong năm” – chứ chưa cần là “Nhân vật của thế kỷ “ – cũng đã là vinh dự và nổi tiếng lắm rồi.

Ông cũng được nước Do thái mời về làm Tổng thống nhưng ông từ chối.

Tuy nhiên ngay từ khi còn nhỏ, Albert Einstein đã làm cho cha mẹ lo lắng. Suốt thời gian khi em mới sinh ra cho tới khi 3 tuổi em không hề hé môi “phán” ra một điều gì cả. Sau đó, từ 3 tới 9 tuổi, thỉnh thoảng em mới mở miệng bập bẹ vài câu cần thiết. Mỗi khi em nói đôi câu, cả nhà đều vui mừng và khoe nhau trong bữa ăn tối.



Tiểu học: Ghét trường học


Mẹ em cho rằng em là một đứa bé rồi ra sẽ học kém hơn các học sinh khác nên bà dạy con trước ở nhà, không cho em đi nhà trẻ cũng như không cho em học mẫu giáo, bà chuẩn bị tất cả để việc đi học tiểu học của con được êm đềm, không bị trắc trở. Mọi người ai cũng lo lắng khi em bé Albert Einstein tới tuổi đi học.

Sinh ra tại Đức trong một gia đình gốc Do thái nhưng Einstein lại được gủi vào trường Công giáo. Ngay từ khi bắt đầu tới trường em đã tỏ ra không thích thú với học đường. Trong lúc bạn bè thơ ngây học hành, chạy nhảy chơi đùa thì em ít nói, chỉ quan tâm và ghi nhận những hình ảnh “tiêu cực” của các giáo viên lúc đó.

Em không che dấu thái độ thù ghét với nhà trường nên đi tới lớp nào là thầy cô của lớp đó ngao ngán, chán nản. Lúc nào em cũng thui thủi một mình, không có bè bạn, không chơi với ai. Tuy vậy em cũng vẫn được lên lớp, vượt qua mọi trở ngại, chông gai ở những lớp Tiểu học.



Trung học: “Sự có mặt của em
làm suy giảm lòng kính trọng của cả lớp học đối với tôi”


Vào Trung học, vẫn giữ thái độ “bất cần” với thầy cô như cũ. Thầy làm gì kệ thầy. Em làm gì kệ em. Albert Einstein thường lầm lũi ngồi vào lớp, không phát biểu ý kiến cũng không muốn ai hỏi han hay nói chuyện với mình. Nói tóm lại, em là một hòn đảo riêng biệt.

Tuy nhiên những tia sáng đã bắt đầu ló dạng. Trong lúc các thầy cô giáo về Latin, Sử Địa, Ngoại ngữ không cách nào làm cho em thích thú môn học thì chỉ có thầy Toán là tìm thấy nơi em một học sinh đáng chú ý.

Em tự học Toán, hễ rảnh là tìm niềm vui trong những bài chứng minh Hình học, loay hoay vật lộn với những quỹ tích, tam giác đồng dạng… Em nghĩ rằng Toán sẽ làm cho suy nghĩ của mình tốt đẹp hơn. Sau đó em tự học Giải tích, làm quen với những khái niệm đạo hàm, nguyên hàm, phương pháp biến đổi điểm …

Một ngày kia, lúc đó em 15 tuổi, đang học trong một trường nội trú. Em được thầy giáo gọi lên và yêu cầu rời khỏi lớp. Ngạc nhiên tột cùng, em thắc mắc hỏi thầy giáo thì được trả lời "lịch sự" rằng:

- “Chính sự hiện diện của em làm suy giảm lòng kính trọng của cả lớp học đối với tôi.”

Kể lại kinh nghiệm cay đắng này, ông đưa ra nhận xét:

- “Tôi cũng muốn rời khỏi lớp học và theo cha mẹ sang Ý nhưng thật ra lý do chính cho việc không tiến bộ trong lớp học của tôi do phương pháp giảng dạy nhàm chán. Bởi vì trí nhớ kém, tôi đã gặp khó khăn rất lớn không thể vượt qua. Do vậy tôi thà chịu đựng mọi hình phạt còn hơn là phải học thuộc lòng bài học.”

Sau này người ta biết rằng, không phải chỉ một, mà là hai thầy giáo đã yêu cầu em rời bỏ lớp học của họ. Chỉ có thầy Toán là đứng lên bênh vực em, “Albert Einstein rất sáng chói. Tôi chẳng có gì nhiều để dạy dỗ cậu ta.”

Sau đó em bỏ học. Tương lai vô định mờ mịt chờ đợi.

Năm 16 tuổi, cha em khuyến khích em thi nhập học vào Viện Bách khoa Zurich, em không đủ điểm, bị rớt môn Pháp văn, Hoá học và Sinh học nhưng để lại hai bài thi sáng chói về Toán và Vật lý nên được trường đề nghị chấp thuận với điều kiện có bằng Trung học. Thế là em đi học lại Trung học, tốt nghiệp, thi lại đại học và được nhận. Trường đại học này đào tạo giáo viên Trung học (Toán, Vật lý) cấp 3 và Kỹ sư.



Đại học: "Em nên học Y, Luật hay Văn chương… "


Khi vào đại học, Albert Einstein vẫn giữ thói quen ngang tàng, bất cần đời nên các Giáo sư rất khó chịu. Tại trường đại học cậu không thèm tới lớp mà chỉ ngồi nhà tự học. Giáo sư Vật lý Jean Pernet đã khuyên cậu, “Em có nhiệt tình nhưng với Vật lý thì … tuyệt vọng. Vì quyền lợi của chính mình em nên chuyển qua học Luật, Y khoa hay Văn chưong.” Đọc tới đây chắc các vị Bác sĩ hay Luật sư thời nay sẽ thách thức ông Giáo sư, “Có ngon thì vào học thử coi…” Nhưng đó là chuyện của lúc đó.

Giáo sư Toán lại còn tệ hơn, không nhìn thấy cả sự nhiệt tình của Albert Einstein và gọi cậu là “con chó lười” (lazy dog.)

Bốn năm sau cậu tốt nghiệp đại học và đứng hạng kế chót trong số các sinh viên trong lớp. Ra trường cậu xin đi dạy học nhưng không trường nào nhận vì không có Giáo sư nào “dám cả gan” viết thư giới thiệu cho cậu. Nếu như cậu đi dạy học thì nhân loại đã mất đi một nhân tài kiệt xuất.

Mãi hai năm sau khi ra trường, nhờ sự giới thiệu của một người bạn học cũ ông mới được nhận vào văn phòng cấp bằng sáng chế Thụy sĩ để làm việc. Và tại đây ông có được một khởi đầu tốt đẹp.

Có lẽ do miếng cơm manh áo, Albert Einstein “thuần tính” hơn. Nhờ có công việc tại văn phòng cấp bằng sáng chế với đồng lương khiêm tốn nhưng đủ để nuôi sống bản thân và gia đình ông quay qua tiếp tục nghiên cứu, lấy bằng Tiến sĩ và trở thành một nhân vật xuất chúng trên bầu trời Vật lý thế giới.

Những công trình nghiên cứu của ông phần lớn là do tự ông suy nghĩ, mày mò nghiên cứu mà không có chỉ dẫn của các Giáo sư khác. Trong trường hợp của ông, đúng thật là “có tật có tài.” Những nỗ lực của ông kết sinh hoa trái nhờ vào không có thầy giáo “quấy rầy” nên ông được tự do làm việc.



Quan niệm và chỉ trích của Albert Einstein về Giáo dục


Trong lá thư gửi một cô gái than phiền về học hành – ông lúc này hơn 50 tuổi đã “xúi dại” cô ta, “…Đừng thèm để ý đến thầy giáo nói gì hay nghĩ gì về mình.” Và trong một lần khác ông còn "đổ dầu vào lửa" khi tuyên bố thêm rằng, “Điều duy nhất cản trở tôi trong việc học hành chính là nền giáo dục tại trường học.” Hay nói khác đi, chính các thầy cô đã cản trở việc học hành của ông!!!

Tất cả những cay đắng đó của ông là do thói quen của nhà trường thời đó bắt ép học sinh học từ chương hay "học vẹt" – thiếu chỗ cho học sinh suy nghĩ và sáng tạo. Dĩ nhiên chỉ trích này có những lời quá đáng. Không học thuộc lòng làm sao chúng ta có thể nhớ được những đoạn thơ Kiều tuyệt vời của cụ Nguyễn Du hay những bài học của tuổi thơ ngày nào trong "Tâm hồn cao thượng" do cụ Hà Mai Anh dịch. Tất cả những áng văn thơ đó vẫn còn đọng trong trí nhớ chúng ta với hương vị ngọt ngào.


Einstein ca ngợi sự tò mò, đầu óc sáng tạo và trí tưởng tượng. Đối với ông, "Tưởng tượng quan trọng hơn kiến thức." Người ta có thể tìm thấy kiến thức trong sách vở nhưng phải tự hình dung ra vấn đề cũng như câu trả lời. Qua nhiều cuộc phỏng vấn, ông kêu gọi nhấn mạnh vào sự tò mò trong học hành vì sẽ không có câu trả lời nếu không có câu hỏi. "Điều quan trọng là không ngừng thắc mắc. Sự tò mò có lý do để tồn tại." Chính từ những quan niệm căn bản này của ông, các nhà giáo dục đã và đang thiết kế một chưong trình học dựa vào những mẫu mực như thế.

No comments: