Thursday, 24 January 2008

77 Hạn Chế Cơn Nóng Giận Của Thiếu Niên




Giáo đa thành oán


Tuổi thiếu niên là một giai đoạn khó khăn cho cha mẹ cũng như cho chính các em. Những áp lực liên tục chồng chất tại trường học và gia đình cộng với những nỗ lực chứng minh tích cách độc lập để lần mò tìm một chỗ đứng trong thế giới người lớn đã dẫn tới nhiều cơn nóng giận với mức độ khác nhau. Kiềm chế hay làm giảm được cơn nóng giận của con cái là một việc làm nhiều khi không dễ dàng cho phụ huynh.

Xác định nguyên nhân

Những nguyên nhân làm phát khởi những cơn nóng nảy và giận hờn của con cái thường do nguyên nhân bên ngoài hay bên trong, những trường hợp thường gặp là: sự chọc giận hay bắt nạt từ những em khác, không được thoả mãn hay bị cấm cản trong gia đình (đi chơi với bạn bè, gặp người yêu, cách ăn mặc, đi đứng, nói năng … ), cảm giác thất bại trong một kỳ thi hay cảm thấy ngu muội do không hiểu bài học và rất nhiều những nguyên nhân từ “trên trời rơi xuống” khác.

Sự bùng nổ cơn nóng giận đôi khi được biểu lộ quá trớn như to tiếng cãi lại, chửi thề, ném đồ đạc, đe doạ bạo lực … Những em này làm vậy đo thiếu kỹ năng giao tiếp xã hội không biết giải quyết vấn đề một cách thích hợp. Các em không được học tập phương pháp đối phó với thách đố chung quanh nên chỉ biết giải quyết bằng to tiếng cãi cọ. Ngoài ra, tự ti và quá nhậy cảm với những chọc ghẹo, phê bình cũng làm trầm trọng thêm vấn đề.

Một em học hành không được tốt, Mẹ em mang người bạn hàng xóm ra giảng giải, “Con thấy đó, thằng Hai nhà bên cạnh lúc nào cũng ngoan ngoãn, học hành giỏi giang còn con thì đầu tóc bê bối, con nên nhìn vào nó mà học hỏi.” Thế là cậu con to tiếng lấn áp lời nói của Mẹ. Và mỗi lần nó làm như thế, bà Mẹ đành im lặng cho gia đình êm ấm. Cậu con thì ngược lại, nó rút kinh nghiệm đó sử dụng cho lần sau nếu cần. Trong trường hợp này nguyên nhân cơn giận dữ của con là do bà Mẹ so sánh con mình với con người khác.

Trên thực tế, mỗi em có những căn nguyên dễ nổi giận riêng mà cha mẹ cần xác định rõ để đối phó. Biết trước được điều đó, không nhiều thì ít, có thể làm giảm bớt những hoàn cảnh hay lời nói làm bộc phát cơn nóng giận của các em.

Biện pháp đối phó

Để có thể chế ngự được cơn nóng giận của các em, một trong những biện pháp tương đối hữu dụng trong thực tế là áp dụng phương pháp “quả bóng.”

Khi nhiều đợt hơi liên tiếp được bơm vào, áp lực bên trong tăng lên và quả bóng sẽ bị nổ tung. Mỗi đợt hơi bơm vào có thể là một điểm xấu tại trường học, một lời chê bai của bạn bè, một lần bị cấm đi chơi … Tất cả tích tụ lại dần cho đến khi nổ tung ra một cơn bão nóng giận. Việc làm của chúng ta do vậy là cố gắng không “bơm thêm hơi” vào và tìm mọi cách “xì hơi” để giảm áp suất bên trong quả bóng. Sau đây là một số biện pháp:

– Tránh đối đầu

Đây là nguyên tắc quan trọng cần chú ý thực hành. Có một số hành động của con cái mà đôi khi cha mẹ phải “nén lòng” làm ngơ vì nếu như phản ứng lại chỉ “bơm thêm hơi” vào quả bóng và tạo thêm ra nhiều rắc rối khác không có lợi cho giáo dục con em.

Một bà Mẹ sai con gái dọn bàn ăn tối, trong khi làm em lẩm bẩm một mình nhưng đủ to cho Mẹ nghe thấy, “Cứ tưởng người ta làm nô lệ muốn sai sao cũng được, ngày mai đi qua nhà bà ngoại ở cho mà coi … ” Trong trường hợp này tốt nhất bà Mẹ hãy coi như không nghe thấy gì, con nói con nghe, miễn là con làm việc theo yêu cầu của bà là được rồi. Hãy coi những ca cẩm của con như phương thuốc giúp chúng “xì hơi” xả bớt tức tối. Cẩn thận không nên tạo ra căng thẳng bằng cách bắt lỗi “tội lầu bầu.” Nhiều bà Mẹ có kinh nghiệm vẫn thường tâm niệm rằng “thua” một tí là chắc ăn nhất. Tránh “con” chẳng xấu mặt nào!!!

– Khuyến khích đối thoại

Phương cách hữu hiệu nhất để đương đầu với các cơn nóng giận có cường độ cao của con cái, nhất là con trai, là nói chuyện và bàn luận thẳng thắn về vấn đề đã gây ra tranh cãi. Trong mọi hoàn cảnh, sau khi “giao chiến” với con, phụ huynh nên mau chóng đưa nó vào “bàn hội nghị”, khuyến khích con nói ra những gì làm cho nó không thích hay khó chịu.

Đối thoại là một nguyên tắc “xì hơi” quan trọng. Trước hết phải yêu cầu con ngồi xuống ghế, đừng để nó đứng ngoài cửa đôi co chống nạnh nói vọng vào. Động tác khởi đầu này của cha mẹ có ảnh hưởng rất mạnh mẽ, một là nó thấy mình quan trọng, hai là đưa con vào khung cảnh phải nói chuyện tử tế. Phụ huynh hãy im lặng lắng nghe, đừng ngắt ngang phê bình khiến chúng mất phương hướng không biết đã nói tới đâu hoặc có cảm giác là cha mẹ không thực sự muốn lắng nghe. Nên tìm hiểu quan điểm của con cái và để cho chúng được tự do diễn tả ý kiến – cho dù là rất trái ngược. Nếu những lời phàn nàn của chúng là tương đối thực tế, hãy tìm hiểu và thoả hiệp một phần nếu có thể được.

– Canh chừng hành động xấu nhưng hãy khen ngợi việc làm tốt

Hành vi tốt hay xấu đều cần được lưu tâm với mức độ như nhau. Chú ý nhiều tới lầm lỗi, thất bại mà không xem xét tới những việc làm tốt của con cái thường làm cho chúng bất bình. Các em hay nói tới chữ “không fair” và chúng thực sự để tâm tới điều đó.

Nên khen ngợi những hành vi tốt hơn là quở trách những hành vi xấu. Các em thường rất nhậy cảm với lời khen chê, cho dù các em có sai vẫn nên tìm cách thêm lời khen và bớt tiếng chê. Bởi vì khen chính là để “xì hơi” còn chê là đã “bơm thêm hơi” vào quả bóng.

– Tập trung vào điểm chính

Liên tục kể tội con hoặc lan man moi thêm ra những “tội lỗi” khác thì giống như liên tục “bơm thêm hơi” vào quả bóng. Kết quả sẽ là bắt nguồn một cơn nóng giận khác. Nếu cần thiết phải nói thì nên vắn tắt đừng quá 15 phút. Hãy giải thích một cách bình tĩnh và chỉ tập trung vào điểm quan trọng nhất. Thời điểm lý tưởng để nói vẫn là chờ đợi sau khi con “hạ hoả.” Trong khi khuyên bảo hãy linh động, tránh đừng đe doa, thách thức hay áp dụng những biện pháp kỷ luật một cách cứng nhắc và nên cho con cái cơ hội được giải thích.

– Cứng rắn hợp lý

Không phải lúc nào cha mẹ cũng nên nhượng bộ. Có những trường hợp nếu không đủ can đảm lên tiếng là đã không làm tròn nhiệm vụ và bổn phận của mình. Cũng có khi phải đặt ra một ranh giới kỷ luật mà nếu vi phạm sẽ phải được răn đe. Khi cần thiết nên chọn một không gian và thời gian hợp lý, đúng nơi đúng lúc. Xin đừng đưa ngay ra biện pháp mạnh mà hãy dành cho lần sau. Sau khi giảng giải nên kèm theo biện pháp thích hợp. “Lần này Ba bỏ qua nhưng lần sau Ba sẽ kỷ luật con bằng cách không cho đi chơi cuối tuần.”

Làm gương mẫu

Các em học tập nhiều từ những hành động và lời nói dù tốt hay xấu của cha mẹ. Phương cách người lớn giải quyết những bất đồng với nhau thường được các em bắt chước. Nếu trong khi nóng giận phụ huynh la mắng, chửi thề, ném đồ đạc … thì dĩ nhiên con cái sẽ học thuộc lòng và áp dụng khi phải đứng trước những tình huống tương tự trong đời sống hằng ngày. Khi có những bất bình trước mặt con cái, cha mẹ nên bình tĩnh, tránh những hành vi tiêu cực dễ khiến cho con cái sao chép. Tốt hơn vẫn là “đóng cửa bảo nhau.” Đây là cách cư xử tương kính dựa trên sự hiểu biết lẫn nhau để không ảnh hưởng tới hành vi của con cái.

Tóm lại, chìa khoá của thành công khi đối phó với những hành động nổi loạn hay nóng nảy của thiếu niên là tránh phải đương đầu trong những vấn đề nhỏ nhặt như ăn mặc, đầu tóc, đi đứng, trang trí phòng riêng, nghe nhạc ... Phụ huynh hãy dùng một ít kiên nhẫn, cư xử với con như người lớn, cho phép những bất đồng ý kiến của con cái được trình bày và chấp nhận với lòng cởi mở. Ngoài ra nên dùng sự hài hước, giảm nhẹ tầm quan trọng của những lời nói hay việc làm “khó thương” của chúng … Làm được như vậy con cái sẽ bình tâm hơn và giai đoạn thử thách này rồi sẽ qua đi.

Monday, 21 January 2008

Saturday, 12 January 2008

75 Giải Olympiad Toán Quốc Tế




Lịch sử

Kỳ thi Olympiad Toán Quốc tế (IMO) đầu tiên được tổ chức tại Rumani năm 1959 với 7 nước trong khối Đông Âu. Hoa kỳ bắt đầu tham dự năm 1974 nghĩa là 15 năm sau. Hiện nay có trên 90 quốc gia và vùng lãnh thổ (Hồng kông, Đài loan ... ) tham dự các kỳ thi này.

Thể thức

Mỗi đoàn tham dự được phép có tối đa 6 thí sinh, một trưởng đoàn, một phó đoàn và một số quan sát viên. Theo quy định, thí sinh tham gia phải dưới 20 tuổi và trình độ không được là sinh viên đại học chính thức. Ngoài ra những học sinh này phải mang quốc tịch hay qui chế thường trú nhân của nước đó.

Thí sinh được thi trong 2 ngày liên tiếp bao gồm 6 bài toán. Mỗi bài toán được chấm tối đa 7 điểm, nghĩa là một thí sinh có thể đạt tối đa 42 điểm trong một kỳ thi. Mỗi ngày thí sinh giải 3 bài trong thời gian 4 tiếng rưỡi.

Các nước tham gia thi, ngoại trừ nước chủ nhà, sẽ được quyền gửi một số đề thi. Sau đó một ban tuyển chọn của nước chủ nhà sẽ lập ra một danh sách các bài toán hay nhất được lọc lựa từ những đế thi này.

Sát ngày thi, trưởng đoàn của những nước tham dự sẽ bỏ phiếu chọn 6 bài chính thức trong số những bài đã được nước chủ nhà chọn ra. Dĩ nhiên sau đó các trưởng đoàn sẽ hoàn toàn không được liên lạc với các thí sinh để tránh gian lận. Họ bị “giam lỏng” để làm công tác chuẩn bị cũng như chấm bài sau đó.

Bài thi của thí sinh sẽ được cả ban giám khảo và trưởng đoàn của thí sinh chấm để đạt được sự công bằng nhất. Nếu hai bên có mâu thuẫn thì người quyết định sẽ là trưởng ban giám khảo. Nếu vẫn còn tranh chấp, giải pháp cuối cùng là tất cả các trưởng đoàn bỏ phiếu.

Huy chương

Số thí sinh được trao huy chương là khoảng một nửa tổng số thí sinh. Nếu chia tổng số thí sinh ra làm 12 phần bằng nhau thì 1 phần có điểm cao nhất sẽ được huy chương vàng, 2 phần sau được huy chương bạc và 3 phần kế được huy chương đồng.

Do vậy ngay cả đối với huy chương vàng cũng có rất nhiều khác biệt vì tài năng chênh lệch nhau khá xa, có khi lên tới cả 10 điểm (trên tổng số tối đa 42 điểm.) Không phải hai thí sinh với hai huy chương vàng là tài năng như nhau.

Trong kỳ thi Toán Olympiad Quốc tế 2007 vừa rồi có 522 thí sinh thì 39 được huy chương vàng (từ 37 – 29 điểm), 83 được huy chương bạc (tù 28 – 21 điểm), 131 được huy chương đồng (từ 20 – 14 điểm) và 149 được bằng danh dự.

Các thí sinh không giành được huy chương nhưng nếu có tối thiểu 1 bài 7 điểm sẽ được tặng bằng khen danh dự.

Thành tích của đội tuyển Hoa kỳ

Tuy không được báo chí và các đài truyền thanh, truyền hình quảng cáo nhiều nhưng đội tuyển Hoa kỳ là một trong ba đội mạnh nhất tại các giải (top three.) Đội đã có 4 lần đứng hạng nhất toàn đội kể từ lần đầu tham dự giải vào năm 1974 và nếu tính theo thành tích chung thì đội được xếp hạng 3 sau Trung hoa và Nga.

Đội tuyển Olympiad Toán Quốc tế Hoa kỳ đạt thành tích tốt nhất khi giải tổ chức tại Hồng Kông 1994. Năm đó tất cả 6 thành viên của đội đều được số điểm tuyệt đối 42/42. Và dĩ nhiên họ cũng mang về 6 huy chương vàng cá nhân và giải đồng đội hạng nhất. Đây là một thành tích vô tiền khoáng hậu mà những đội mạnh nhất như Trung hoa hay Nga cũng chưa bao giờ có được.

Nhân vật xuất sắc nhất từ xưa tới nay của đội Hoa kỳ tên là Reid Barton – người đầu tiên giành 4 huy chương vàng liên tiếp tại các kỳ thi IMO năm 1998 (32 điểm), 1999 (34 điểm), 2000 (39 điểm) và 2001 (42 điểm.) Trong lịch sử gần 50 năm tổ chức giải mới chỉ có hai trường hợp như thế.

Oleg Golberg là thí sinh duy nhất trong lịch sử từng giành huy chương vàng với tư cách là thành viên hai đội tuyển quốc gia khác nhau. Hai huy chương vàng đầu tiên đạt được với tư cách thành viên của đội Nga năm 2002 (36 điểm), 2003 (38 điểm) và một huy chương vàng với tư cách thành viên đội tuyển Mỹ năm 2004 (40 điểm.)

Trong giải Olympiad Toán Quốc tế 2007 vừa qua tại Hà nội đội Mỹ đã đạt được 2 huy chương vàng, 3 huy chương bạc, 1 huy chương đồng. Được xếp hạng 5 đồng đội. Hai huy chương vàng đội có được do hai học sinh gốc Trung hoa là Sherry Gong và Alex Zhai. Riêng em Sherry Gong là học sinh của Phillips Exeter Academy thuộc tiểu bang New Hampshire, một trong những trường tư nổi tiếng nhất và có mức học phí cao nhất. Em sẽ theo học tại Harvard mùa thu tới.

Một vài đặc biệt đáng ghi nhận

Nhiều quốc gia lợi dụng kỳ thi Olympiad Toán Quốc tế nhằm mục đích tuyên truyền về thông minh dân tộc cũng như gia tăng niềm tự hào dân tộc giả tạo.

Có một số nước rất mạnh về Khoa học Kỹ thuật nhưng vẫn chưa có gì nổi bật nhiều trong các cuộc thi Olympiad Toán Quốc tế mà điển hình là Ấn độ, Do thái, Pháp ... Kỳ thi năm 2007 vừa qua đội Ấn độ đứng hạng 26 với 85 điểm, Pháp hạng 43 với 79 điểm và Do thái hạng 50 với 71 điểm so với Bắc Hàn đứng hạng 8 với 151 điểm.

Điều đó không thể chứng minh rằng dân tộc Bắc Hàn thông minh hơn Do thái, Ấn độ và Pháp qua thực tế nhưng nó đã chứng tỏ rằng sự quan tâm của mỗi quốc gia đến kỳ thi Olympiad Toán Quốc tế này rất khác nhau. Sẽ không ai phản đối nếu nói rằng Bắc Hàn – vì mục đích tuyên truyền – đã đầu tư nhiều công sức cho kỳ thi này hơn Ấn độ, Do thái, Pháp.

Một số quốc gia tập trung những học sinh giỏi được tuyển lựa từ địa phương rồi tập trung huấn luyện nhiều năm trước khi cho đi thi. Chính vì vậy những học sinh này đã trở thành những “con gà nòi” chuyên nghiệp được dùng để “đi đá” trong các kỳ thi Olympiad Toán Quốc tế. Điều này đôi khi tạo nên sự khập khễnh; có em được huy chương vàng nhưng lại rớt kỳ thi đại học. Kết quả là không vào được đại học và không được học ngành mình yêu thích.

Trong lãnh vực Toán học dường như người Trung hoa chiếm thượng phong trong các giải. Dù tham gia muộn màng nhưng chỉ với 22 lần có mặt họ đã xếp hạng nhất đồng đội 13 lần trong đó có tới 8 lần mà tất cả 6 thí sinh Trung Quốc đều được huy chương vàng (các năm 1992, 1993, 1997, 2000, 2001, 2002, 2004 và 2006.)

Không những thế các em gốc Hoa sinh sống tại các quốc gia khác cũng mang về nhiều vinh dự cho quốc gia sở tại. Thần đồng Terence Tao (Úc) bắt đầu tham gia thi Olympiad Toán Quốc tế khi mới 11 tuổi vào năm 1986. Trước đó vào năm 8 tuổi Terence đã đạt được 760 điểm Toán SAT qua chương trình nghiên cứu tài năng đặc biệt của đại học Johns Hopkins. Đến năm 1988, lúc 13 tuổi, cậu trở thành thí sinh trẻ nhất giành huy chương vàng tại kỳ thi Olympiad Toán Quốc tế. Sau đó Terence tốt nghiệp PhD Toán tại đại học Princeton Hoa kỳ lúc 20 tuổi rồi được nhận vào ban giảng huấn của UCLA ngay sau đó. Ông được bổ nhiệm làm giáo sư chính thức (full professor) Đại học UCLA khi 24 tuổi. Vị Giáo sư trẻ tuổi này được trao Giải Fields (được coi như giải Nobel của Toán học) năm 2006.

Trong cuộc thi năm nay 2007, trong số 6 em của đội tuyển Mỹ dự thi thì có 2 em gốc Hoa. Cả hai đều mang về những huy chương vàng. Nhìn người lại nghĩ đến ta. Các học sinh trong cộng đồng dường như không thích chứng tỏ mình trong lãnh vực này. Hy vọng một ngày nào đó chúng ta sẽ có học sinh gốc Việt trong đội tuyển Olympiad Toán Quốc tế của Mỹ.

Thursday, 3 January 2008

74 Al Gore: Học Vấn và Chọn Ngành Nghề




Dạy con từ thuở tiểu sinh
Gần thầy gần bạn tập tành lễ nghi
Học cho "cách vật trí tri"
Văn chương chữ nghĩa nghề gì cũng thông


Tại trường St. Albans

Giống như Tổng thống Kenedy học tại Choate, TT Bush học tại Phillips Andover Academy, PTT Al Gore theo học trường St. Albans … Tất cả những trường nội trú trên đều dành cho con em giới thượng lưu, giàu có. Phí tổn theo học gồm học phí và các khoản linh tinh khác cho năm học 2007 – 2008 là $41 ngàn. Đây là một trường nam, Gore bắt đầu vào học St. Albans từ lớp 4 và học tại đây suốt 9 năm liên tục cho tới khi hoàn thành bậc trung học.

St. Albans là một ngôi trường được tổ chức theo kiểu Anh quốc vốn luôn nhấn mạnh vào ý thức tập thể giống như thiếu sinh quân. Học sinh được dạy tuân theo kỷ luật chung hơn là khám phá bản thân mình. Trong môi trường như thế, Gore luôn luôn là một học sinh ngoan ngoãn và gương mẫu. Trường St. Albans huấn luyện học sinh hoạt động về thể chất nên Gore có dịp chơi nhiều môn thể thao. Giống như PTT Dick Cheney, Gore được bầu làm Đội trưởng đội banh bầu dục trong trường, một vị trí sáng chói luôn được các cô yêu thích!

Xong bậc trung học, GPA của Gore không được tiết lộ, nhưng cậu tốt nghiệp với thứ hạng trung bình là 25 trong số 51 học sinh (so sánh với cựu TT Bill Clinton tốt nghiệp hạng 5 trong một lớp trung học tại trường công lập với khoảng 600 học sinh.) Một điều đáng ghi nhận là điểm Khoa học và Toán của Gore cứ từ từ xuống dốc trong những năm trung học.

Sau đây là một số điểm SAT2 của Gore:

– Physics 488/800, Chemistry 519/800 (không tốt lắm!)
– English 705/800, US History 701/800 (Khá lắm!)

Điểm SAT1 của Gore là 1355 (Toán 730, Anh văn 625.) Tương đương với điểm SAT ngày nay là 1400 (SAT cũng có lạm phát!) Chỉ số IQ của Gore trong khi theo học trung học là 133 - 134. Kết quả trên rất cao, nó chứng minh một tiềm năng tuyệt vời. Như vậy, nói theo người Việt chúng ta: Gore là một học sinh thông minh nhưng … lười!!!

Điểm GPA thường được dùng để tiên đoán mức độ chăm chỉ, động cơ học tập và sự sẵn sàng cạnh tranh của học sinh. Nếu theo dõi điểm của Gore người ta thấy phần lớn là C, B với một ít A (có được nhờ môn phụ.) Như vậy, Gore không thích thú nhiều môn học và dĩ nhiên muốn thành công trong học vấn Gore phải tự hỏi mình thích học môn gì hay thích làm gì trong tương lai. Điều này cũng cho thấy một khuynh hướng tiêu cực của nhiều học sinh, sinh viên tại Mỹ: họ coi điểm (grades) như trò đùa, thích thì học, không thích thì ... không học! Điểm A hay B thì tốt còn nếu như C hay D cũng chẳng khác gì nhau!!!


Khi nộp đơn đại học, không hiểu vì lý do gì Gore tự tin đến nỗi chỉ nộp đơn vào một đại học duy nhất là Harvard (tất cả 4 người con của Gore cũng theo học tại đây.) Năm đó Harvard đã nhận tất cả những học sinh St. Albans nộp đơn xin nhập học vào Harvard. Và như vậy, điều này cho thấy tính tương đối của điểm GPA.

Thầy John Davis, người đã viết thư giới thiệu cho Gore mà không hề quan tâm đến điểm của cậu đã nhận định, “Vào lúc đó, Al Gore là loại học sinh Harvard tìm kiếm. Harvard muốn một người học sinh tốt và có tiềm năng tương lai. Họ rất có ấn tượng rằng Gore là con của một Thượng nghị sĩ liên bang. Những đại học như Harvard, Princeton, Yale rất vui thích khi thu nhận con cái những nhân vật quan trọng. Họ muốn học sinh của chúng tôi y như học sinh của chúng tôi thích trường của họ. Và Al Gore lại là đội trưởng bóng bầu dục. Bất cứ chàng trai cao to nào cũng được các đại học mở rộng vòng tay nếu chơi bóng bầu dục.”

Đại học Harvard và binh nghiệp

Mùa thu năm 1965, Gore bắt đầu cuộc hành trình mới tại trường Harvard với ý định theo chuyên ngành Anh văn. Gore được các sinh viên năm thứ nhất bầu là Trưởng lớp (President) của họ sau một cuộc vận động vất vả. Tuy nhiên, về học lực, Gore bị xếp vào số các sinh viên học dở nhất lớp (bottom 20%) trong năm thứ nhất. Sang năm thứ hai, Gore được một D, một C-, hai C, hai C+, và một B-. Năm thứ hai không hơn gì năm thứ nhất!

Mặc dù có điểm cao về SAT Toán, Gore tìm mọi cách tránh né những môn về Khoa học Kỹ thuật hoặc nếu có phải lấy thì lấy những lớp rất nhẹ như “Vị Trí Của Con Người Trong Thiên Nhiên” nhưng cũng chỉ được điểm D và mùa sau khá hơn là C-. Không có căn bản vững vàng của môn Khoa học ở trung học sẽ là thảm hoạ cho sinh viên trên đại học.


Sang năm thứ ba, Gore lấy một số lớp của Giáo sư Neustadt về phương cách ra những quyết định trong nhiệm kỳ Tổng thống. Một trong những lớp đó Gore được đóng vai TT John F. Kenedy phải ra quyết định trong cuộc tranh chấp hoả tiễn tại Cuba. Và cậu được điểm A trong lớp này, một lớp mà các bạn cùng lớp của Gore thường ngán ngẩm vì Giáo sư Neustadt nổi tiếng rất khó. Thế là Gore chuyển qua tập trung vào chuyên ngành Chính quyền.


Sau đó nhờ một luận án rất khá về ảnh hưởng của truyền hình vào các cuộc tranh cử Tổng thống, cậu tốt nghiệp hạng danh dự vào 1969. Thế là nhờ cơ duyên gặp gỡ Giáo sư Neustadt mà Gore ham thích học hỏi và có được một chuyên ngành để ra trường!

Qua năm thứ tư, Gore lấy lớp Hải dương học của Giáo sư Roger Revelle, một chuyên gia về hiệu ứng nhà kính và hâm nóng địa cầu. Và có lẽ vị Giáo sư này đã tác động mạnh mẽ đến suy nghĩ của Gore khiến ông đã tranh đấu không mệt mỏi cho môi trường của trái đất. Trong diễn văn đọc khi nhận giải thưởng Nobel Hoà bình ngày 10/12/07 tại Oslo, Na uy vừa qua, ông đã đề cập đến tên tuổi của vị Giáo sư rất đáng kính trọng này.

Sau khi tốt nghiệp Harvard, Gore gia nhập Bộ binh Hoa kỳ năm 1969. Cho dù phản đối cuộc chiến tranh Việt nam khi còn là sinh viên, Gore cũng nhìn nhận rằng phục vụ trong quân đội sẽ giúp Gore sau này trong sự nghiệp chính trị. Chính nhờ quân đội hình ảnh Gore trở nên vững vàng hơn dưới mắt cử tri. Ngoài thân thế gia đình, mạng lưới các cựu sinh viên Harvard hiện đang giữ những chức vụ quan trọng trong xã hội cũng mang lại sự hỗ trợ cho Gore.


Sau khóa huấn luyện quân sự trong quân trường, Gore nhận nhiệm vụ làm phóng viên cho nhật báo The Army Flier. Bảy tháng trước khi giải ngũ, cậu được cử đến Việt Nam vào ngày 02/02/1971. Gore phục vụ bốn tháng trong Trung đoàn Công binh 20 ở Biên Hòa và thêm một tháng ở ngành Công binh thuộc căn cứ quân sự Long bình.

Đại học Vanderbilt và cơ hội chính trị

Có lẽ Gore muốn làm mục sư hay một nhà truyền giáo nên sau khi giải ngũ Gore theo học Thần học tại Đại học Vanderbilt và để lại một học bạ gồm ... 5 điểm F (do không hoàn tất khoá học) trong 8 môn học. Gore nhận ra rằng Thần học không phải là hướng đi của mình.


Mẹ Gore, một Luật sư tốt nghiệp đại học Vanderbilt đã khuyến khích cậu đổi qua học Luật cũng tại Vanderbilt. Trong thời gian này, Gore vừa đi học vừa làm phóng viên cho nhật báo The Tennessean tại Tennessee. Gore lưỡng lự chưa biết phải làm gì cho đời mình. Đồng thời Gore cũng thử thời vận trong việc viết lách hay những công việc có liên quan đến ngành cảnh sát. Nói tóm lại, Gore thử tất cả mọi loại công việc để tìm hiểu ý thích bản thân và chọn cho mình hướng đi song song với sự nghiệp chính trị. Đây cũng có thể là thời gian cậu và gia đình ngẫm nghĩ, chờ đợi thời cơ tốt đến với mình.

Tuy nhiên trước khi tốt nghiệp trường Luãt, Gore biết được dân biểu khu vực bầu cử của mình dự tính về hưu, thế là Gore liền nhanh tay nắm bắt cơ hội. Trong khi đó, mẹ Gore muốn cậu đừng bỏ học Luật mà hãy vừa theo đuổi chính trị vừa hoàn tất chương trình học Luật của mình. Nhưng có lẽ chính trị cũng là con đường để Gore “trốn học” nên từ đó người ta không còn thấy Gore trong giảng đường của trường Luật Vanderbilt nữa.


Tiểu sử học hành của Al Gore cho thấy quan điểm của con em chúng ta ngày nay tương đối giống như vị cựu PTT này. Họ không chú ý nhiều về điểm và cứ chạy vòng vòng thay đổi chuyên ngành hay nghề nghiệp khiến cha mẹ “chóng mặt.” Nhiệm vụ của phụ huynh vẫn là kiên nhẫn và chờ đợi. Các em thường chỉ học và làm theo ý thích mà thôi. Nhìn một cách tích cực, sự thay đổi nhiều hướng đi trong đời đã giúp cựu PTT Al Gore biết tự điều chỉnh sau thất bại trong cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ năm 2000; nhờ vậy ông đã đoạt giải Nobel Hoà bình qua cuộc tìm kiếm giải pháp tốt đẹp hơn cho môi trường chung của trái đất.

Wednesday, 2 January 2008

05 Một Số Khuyết Điểm Cần Sửa Chữa Của Học Sinh




Con ơi, mẹ bảo con này,
Học hành chăm chỉ, cho tày người ta
Con đừng học thói chua ngoa,
Họ hàng ghét bỏ, người ta chê cười,
Dù no, dù đói, cho tươi,
Khoan ăn, bớt ngủ, là người lo toan.



Có nhiều em học sinh, sinh viên Việt nam chúng ta thông minh và hiếu học; đi vào bất cứ một đại học nổi tiếng (Harvard, MIT, Stanford, Yale ..) hay một học bổng danh giá nào (Rhodes, Fulbright, Howard Hughes …) cũng nhận ra những họ Nguyễn, Trần, Lê, Vũ … trong danh sách.

Bên cạnh những thành tựu đáng tự hào đó, một số con em khác của chúng ta cũng đang phải đương đầu với khó khăn mà các học sinh tại Mỹ nói chung thường gặp. Mục đích của bài nhằm đưa ra một vài khuyết điểm nảy sinh tại trường học và gia đình cũng như đề ra một vài biện pháp khắc phục.

Không quan tâm về điểm (grade)

Một ông trung niên vào học đại học ở Mỹ được chứng kiến một điều lạ lùng. Trong lớp các em hiểu rõ bài hơn vì tiếng Anh các em thông thạo hơn, điều đó không những đúng đối với các môn Anh, Sử … mà còn đúng cả với các môn Toán, Lý, Hoá … nữa. Khi làm lab (thí nghiệm) chúng thực hiện nhanh hơn và … ra về sớm hơn – nhưng ngược lại hễ có điểm thì thế nào ông cũng cao điểm hơn. Rõ ràng không phải vì giỏi hơn mà vì ông quan tâm tới điểm, cố gắng làm tốt mọi thứ phải làm. Gặp “extra credit” (bài cho điểm thêm) là suy nghĩ làm ngay. Một số em không chịu bỏ công sức ra làm.

Cẩu thả hơn nữa, sau khi có thí nghiệm phải về nhà làm báo cáo kết quả (report), trả lời một số câu hỏi và tính toán những điều mình đã thực hiện, các em làm rất qua loa. Đợi tới lúc sắp nộp bài mới cuống lên làm. Do vậy bài báo cáo không đạt được tiêu chuẩn tốt và điểm không cao.

Ngoài ra, các em nắm kiến thức mới khá nhanh nhưng ứng dụng kiến thức đó vào thi cử không hiệu quả nên điểm thấp. Vì sao? Vì không quan tâm về điểm. Giáo sư dặn dò ôn tập phần nào không chú ý lắng nghe. Hoặc có nghe nhưng không ghi chép xuống. Đối với các em dường như điểm không phải là một điều đáng lo lắng! Các em mang thói quen xấu này trong suốt quãng đời đi học.

Thời gian dành cho bài thi là 50 phút thì mới 30 phút là chỉ còn 1/3 lớp, các em làm đại cho xong, không kiểm soát lại những lầm lỗi (mistakes.)

Nói chung, các em không học cách cải tiến từ sai lầm nên sai lầm cứ lập đi lập lại. Học như thế thì lâu ra trường vì phải lấy lại môn bị rớt. Các em không tập luyện cho thành kỹ năng (skill) nên hôm nay làm được bài nhưng hôm sau làm không được. Không phải như ở Việt nam, ở Mỹ giáo sư trả lại bài không cho người này biết điểm của người kia nên các em bị C hay D không khó chịu lắm.

Hơn nữa, giáo sư tại đây đôi khi “curve”, nghĩa là tính điểm theo sinh viên cao nhất. Thí dụ: một sinh viên sau khi làm bài thi được 70%, tương đương với điểm C nhưng nếu sinh viên này cao điểm nhất thì C biến thành A và những sinh viên khác bị D sẽ được đưa lên B. Do vậy các em bằng lòng với C hay D rồi chờ giáo sư “curve” nâng điểm lên. Điều này xảy ra ở cả trung học và đại học.

Thông thường nhà trường Mỹ không khuyến khích việc ganh đua hoặc quan trọng hoá về điểm. Nhưng thật ra khi tuyển sinh bất cứ ngành nào họ căn cứ khá nhiều vào điểm nên phụ huynh cần dặn dò các em quan tâm tới điểm ngay từ bé bằng cách khen thưởng khi điểm đi lên. Phần thưởng nhằm thể hiện sự khen ngợi của cha mẹ trước cố gắng của con em mình. Vì thế, khi thấy con được điểm tốt xin hãy thưởng cho các em một lời khen, một cái ôm hôn thân thương, một buổi đi ăn tối... Tất cả những khen tặng đều là phần thưởng có ý nghĩa. Tuy nhiên quan trọng hơn vẫn là giúp các em hứng thú và tìm được niềm vui trong học tập. Đây mới là nguồn lực chính giúp các em có được kết quả học tập tốt.

Phụ huynh nên khuyến khích các em tự làm việc và làm lại bài ở trường học. Tất cả những quiz (bài kiểm ngắn cho một bài học chừng 15’) và test (bài kiểm cho một chương chừng 50’) nên được giữ lại và sửa lầm lỗi để khi có bài kiểm tra giữa và cuối học kỳ thì mang ra ôn lại. Xin hãy yêu cầu các em ghi chú những sửa chữa của thầy cô giáo vào bài kiểm. Rất nhiều em khi nhận được bài kiểm là vo viên vào rồi ném vào thùng rác. Giáo sư tại đây hay ra lại những đề tài cũ mà họ đã ra trong những lần trước. Dĩ nhiên không lần nào hoàn toàn giống nhau nhưng căn bản thì ít khác biệt.


Không có hướng đi và không có động cơ học tập

53% tân sinh viên 2005 ghi là “chưa quyết định” khi chọn ngành học (major) trên đại học Stanford. Các em quyết định hướng đi khá trễ. Riêng với học sinh gốc Việt, một số có hướng đi rõ ràng, biết mình sẽ học gì, không đổi ngành học, không học thừa tín chỉ, nên bao giờ học cũng khá và nhanh ra trường. Cha mẹ nên cho các em có cơ hội gặp gỡ, làm quen nhiều ngành nghề khác nhau để các em có dịp tìm hiểu và suy nghĩ đến nghề nghiệp tương lai.

Điều quan trọng của việc định hướng nghề nghiệp là các em có mục tiêu để nhắm tới và do vậy có động cơ học tập. Nếu một em muốn lớn lên làm một nghề không vừa ý cha mẹ thì đừng chê bai, ngăn cản. Thực tế cho thấy nhiều người đã thay đổi nghề nghiệp của mình khi lớn lên. Và cho dù em làm nghề mà cha mẹ không thích đi nữa thì sống đàng hoàng, có một công việc yêu thích để làm cũng là một vinh dự cho gia đình.

Tuy nhiên không phải lúc nào chúng ta cũng thành công trong việc tạo cho các em có động cơ học tập. Nhiều em khi được hỏi muốn làm nghề nghiệp gì trong tương lai thì trả lời “không biết.” Xin hiểu rằng đối với các em, chúng tự hỏi tại sao cha mẹ lúc nào cũng ầm ĩ chuyện học hành. Trước mắt chúng là hàng triệu người không qua đại học mà vẫn thành công, vẫn nổi tiếng và giầu có.

Nhiều nhà khoa học như Albert Einstein học rất thường ở trung học và đại học nhưng lại rất giỏi khi nghiên cứu những công trình khoa học. Thomas Alva Edison tới trường học chính thức chỉ có … 3 tháng còn bao nhiêu là do mẹ dạy ở nhà mà vẫn trở thành một trong những nhà phát minh, sáng chế vĩ đại nhất của nhân loại. Nhiều người đoạt giải Nobel, các nhà tỷ phú máy tính... bỏ học ngang mà vẫn thành danh. Do nghĩ như vậy nên một số em cứ tà tà vui sống, không lường trước được đoạn đường chông gai trước mặt, không hiểu được những thành công ít ỏi đó chỉ là thiểu số.

Khuyết điểm trên không phải của riêng em nào cả mà là chung của các em lớn lên tại Mỹ. Thật ra có em biết lo cho tương lai sớm, có em biết lo cho tương lai trễ hơn. Quả trên cây còn có quả chín sớm quả chín muộn. Cha mẹ vừa phải nhắc nhở, khuyên răn, vừa phải nghe ngóng, chờ đợi, sẽ tới lúc các em biết quan tâm cho tương lai. Bất cứ hành động quở trách nào cũng chỉ mang tác dụng ngược.


Không có đối thoại tốt

Một số ít em không thể nói chuyện được với các thành viên khác trong gia đình. Hỏi về học hành thì nổi nóng, thậm chí trở thành lỗ mãng. Mọi người cảm thấy “khắc khẩu” với em. Em mang thói quen xấu này tới trường học, không lễ phép với thầy cô, không có bạn bè tốt. Đây chính là giai đoạn cha mẹ nên điều chỉnh chiến thuật giáo dục.

Khi đó cha mẹ nên kiên nhẫn, đừng đòi hỏi kết quả học tập cao vì không thực tế. Em còn tới trường là tốt rồi. Nóng nảy rầy la, chê bai, so sánh con mình với con người khác không bao giờ mang lại kết quả như ý. Ít nhất một người trong gia đình phải tìm cách là chỗ dựa tinh thần để em tâm sự, nói ra suy nghĩ của mình. Em nào càng học dở, càng “chứng” thì em đó càng cần được quan tâm, săn sóc và yêu thương hơn.

Các em trưởng thành trong một môi trường khác nên có quan điểm sống không giống chúng ta. Nguyên nhân lúc ban đầu có thể vì những xung khắc của hai lối sống, hai cách suy nghĩ khác nhau giữa trường học với gia đình khiến con em chúng ta lúng túng, lúc nào cũng cảm thấy minh ìà một hành tinh xa lạ trong gia đình. Chẳng hạn việc đưa bằng hai tay khi đưa vật gì cho người lớn. Đối với chúng ta đây là thói quen văn hóa lâu đời, việc nên làm. Tuy nhiên khi các em mang thói quen này tới trường học thì được coi là “kỳ cục” đối với một số người Mỹ. Các em từ Việt nam qua lúc đã lớn có thể phân biệt chỗ nào, lúc nào nên làm nhưng đối với một số em sinh ra và lớn lên tại Mỹ, chúng không thể thích ứng được. Các em hoang mang rất tội nghiệp. Vậy chúng ta có nên thay đổi chính suy nghĩ của mình không?

Tóm lại, những thử thách mà chúng ta đang phải đương đầu là có thật. Nếu nó đã xảy ra và đang tồn tại: hãy kiên nhẫn, bình tĩnh và sẵn sàng thay đổi quan điểm của mình vì lợi ích của các em hơn là vì lợi ích của người lớn. Hy vọng các em, sớm hay muộn, cũng thành công, cũng thành người tốt

04 Dick Cheney: Thất Bại và Điều Chỉnh của Học Đại Học




Canh một dọn cửa dọn nhà
Canh hai dệt cửi canh ba đi nằm.
Bước sang cái trống canh năm,
Trình anh dậy học còn nằm làm chỉ
Nữa mai chúa mở khoa thi,
Bảng vàng chói lọi kia đề tên anh








Phó Tổng thống Dick Cheney là học sinh trung học của trường công lập Natrona County thuộc tiểu bang Wyoming. Chàng trai trẻ là trưởng khối lớp (President) của lớp 12. Khác với trưởng lớp tại Việt nam là trưởng lớp của một lớp, President là trưởng lớp của tất cả các lớp 12, của toàn thể học sinh năm cuối trong trường nên rất có uy tín. Đồng thời Dick Cheney là đội trưởng (captain) đội bóng bầu dục và đại diện trường tham dự hướng đạo sinh tiểu bang. Biết bao cô gái trong trường “để mắt” tới chàng!!!

Tại trường trung học, chàng biết yêu sớm, lúc 14 tuổi, hò hẹn với Lynne Anne Vincent, một học sinh giỏi toàn điểm A và cũng là hoa khôi (queen homecoming) của trường. Do vậy đôi trai tài gái sắc này cùng được mọi người biết tiếng. Lynne là một cô gái nhanh nhẹn và tháo vát. Chính cô đã liên lạc với một nhà đầu tư dầu hỏa trong vùng để ông này cho Dick Cheney học bổng toàn phần theo học tại Yale. Mùa thu năm 1959, Cheney đi Yale, tiểu bang Connecticut còn Lynne đi Colorado College gần nhà hơn. Chàng và nàng ngậm ngùi tiễn biệt nhau!


Là học sinh đứng đầu 10% (top ten) về học lực cộng với thành tích xuất sắc về lãnh đạo chỉ huy và thể thao, Cheney được nhận vào Yale, một trong những trường đại học hàng đầu của Mỹ. Tại Yale, Cheney theo học Chính trị, một ngành tương đối dễ rồi tiếp tục chơi bóng bầu dục (football), học hành và … nhớ Lynne. Lúc nào người ta cũng thấy Cheney miệt mài viết thư cho Lynne. Để “em gái hậu phương” xinh đẹp như thế lại quê nhà chàng chẳng thể yên tâm chút nào. Ngoài ra, Cheney còn lang thang với các bạn đánh bài và tán gẫu. Nhưng thói quen xấu đáng sợ nhất là Cheney hay bỏ lớp nên bài không hiểu, bài kiểm làm đại cho xong, học hành như thế thì kết quả ra sao rất dễ biết.

Các trường nổi tiếng thường cấu trúc một chương trình khó và căng thẳng. Sau 3 học kỳ (semesters) không đáp ứng được những đòi hỏi cao của đại học Yale, văn phòng nhà trường gọi Cheney lên yêu cầu nghỉ dưỡng sức một học kỳ. Mùa thu 1961 chàng quay lại học tiếp nhưng cố gắng này cũng không thành công, nhà trường buộc chàng thôi học luôn vì không thực hiện được sự tiến bộ.


Điều này cho thấy năm đầu đại học là một bước thay đổi rất lớn và rất khó khăn cho các tân sinh viên. Sự tự do không bị cha mẹ kiểm soát, nhớ nhà, nhớ người yêu, bạn bè rủ rê, bài học tại đại học khó hơn … Tất cả đã tạo ra thảm họa cho Dick Cheney cũng như các tân sinh viên khác. Để hạn chế điều này, nên khuyên các em lấy lớp dễ, lấy ít môn trong năm thứ nhất và nhất là trong mùa hè sau lớp 12 nên cho đi học tại trường cao đẳng địa phương (community college) để dễ thích nghi với môi trường mới. Bất kể các em thành công thế nào tại trung học (lấy nhiều lớp Honors, nhiều lớp AP, nhiều lớp khoa học, ngay cả thủ khoa …) Năm đầu tại đại học 4 năm sẽ khó khăn, rất khó khăn.

Nhân đây xin được nhắc lại, cũng tại Yale, cựu ứng cử viên Tổng thống John Kerry “lãnh” 4 con D trong năm thứ nhất cho 10 môn học. Nếu học kỳ thứ nhất các em đụng đầu vào tường thì nên liên lạc với trường xin nghỉ học kỳ hai, học ôn lại ở nhà, dưỡng quân rồi học tiếp. Có trường đồng ý, có trường không. Lời khuyên này có thể không đúng với một số em xuất sắc. Đã từng có em Việt nam lấy 20 đơn vị tín chỉ (units) cho học kỳ đầu tiên mà vẫn toàn điểm A.

Quay lại câu chuyện của Dick Cheney. Trở về nhà, Cheney làm cho một công ty xây dựng đường dây điện cao thế để có tiền mưu sinh. Mới ngày nào là đội trưởng football, là trưởng lớp, là sinh viên của Yale, đi vào trường thầy cô bạn bè ai cũng kính nể mà nay vô danh tiểu tốt, chân lấm tay bùn. Những ngày tháng huy hoàng nay còn đâu? Thất vọng tột cùng, chàng uống rượu, sáng say chiều xỉn, và 2 lần bị bắt về tội say rượu lái xe (DUI) trong một năm. Đời chàng tưởng chừng như tiêu tan ...

Lynne thất vọng tột cùng về Cheney. Đến nước này, sau nhiều lần can ngăn và an ủi không kềt quả, Lynne (lúc đó đã tốt nghiệp đại học) lên tiếng tuyên bố xanh rờn, “Phi cao đẳng bất thành phu phụ” -- làm sao thì làm, không học xong đại học em sẽ ... nghỉ chơi với anh. Thế là Cheney xanh mặt, biết Lynne đã hết kiên nhẫn, bèn ghi danh đi học lại tại trường gần nhà, University of Wyoming, năm 1963.



Quyết định của Cheney thật can đảm và xứng đáng được ghi nhận. Phải hiểu cho chàng là, đã lỡ đi học trường lớn, bây giờ quay lại trường địa phương mình bạn bè sẽ chê cười. Thấy Cheney biết lo cho tương lai, năm 1964 Lynne thưởng cho chàng một cái … đám cưới. Vì Wyoming là trường nhỏ nên việc học hành thường dễ hơn trường lớn như Yale. Rút kinh nghiệm từ thất bại trước, Cheney chăm lo học hành và được toàn điểm A, tốt nghiệp Cử nhân Chính trị học năm 1965 và Cao học năm 1966.



Trái với quan niệm của nhiều người, tình yêu học trò không ngăn cản việc học hành. Chính việc lựa chọn những quyết định thiếu khôn ngoan đã đưa đẩy nhiều sinh viên tới thảm hoạ. Cheney may mắn gặp Lynne, người mà sau này ông từng nhận định, “Lynne có khả năng đưa bất cứ người đàn ông nào vào White House.” Qua kinh nghiệm của Cheney, chúng ta có thể rút ra những bài học như sau:

Tới lớp đều đặn:

Rõ ràng là đúng, nhưng làm sao có thể thức dậy đi học vào những lớp bắt đầu lúc 8 giờ sáng là việc không dễ. Hãy để đồng hồ báo thức, nhờ cha mẹ gọi điện thoại lên đánh thức. Tham dự lớp nhiều dĩ nhiên hiểu bài hơn, nắm vững được kiến thức, biết được trong bài kiểm giáo sư sẽ hỏi gì, ôn thi thế nào cho tốt hoặc biết được thay đổi về kỳ hạn nộp bài.

Giữ cân bằng giữa chơi và học:

Đời sống tại đại học là một tổng hợp của chơi và học. Phải biết điều chỉnh ở mức độ thích hợp để có thể học được dài lâu. Chơi quá thì bị điểm xấu. Học quá sẽ bị căng thẳng tâm lý (stress) không đi được đường dài. Quan trọng nhất là đừng sao lãng học hành.

Học cách đối phó với nhớ nhà, nhớ người yêu:

Phải hiểu rằng nhớ nhà, nhớ người yêu là bản chất tự nhiên của việc đi học xa. Một vài tuần lễ đầu rất quan trọng. Hãy gọi điện thoại hoặc email về cho cha mẹ, người yêu nhưng phải khống chế thời gian. Bắt đầu thì khó nhưng sẽ quen sau đó.

Ở lại trường càng nhiều càng tốt:

Đừng vì nhớ nhà hay nhớ người yêu mà lái xe quay về nhà, rất tốn thời giờ và ảnh hưởng tâm lý. Mỗi lần ra đi lại bịn rịn chia tay. Hãy dùng thời gian đi thăm mọi chỗ trong trường và kiếm bạn bè mới. Nên tham dự những sinh hoạt văn hoá, xã hội trong trường.

Các cha mẹ đừng bao giờ tuyệt vọng:

Khi con cái bỏ học ngang, bị điểm xấu hay lâu ra trường, xin quý vị phụ huynh đừng tuyệt vọng. Nếu có con đi học Yale rồi bị đuổi quay về, chúng ta sẽ nghĩ sao? Rất đau lòng nhưng phải hiểu con mình còn đau lòng hơn. Nó đang thất vọng về chính nó và cần sự an ủi nâng đỡ. Việc làm tốt nhất không phải là chỉ trích la rầy. Hãy đưa gương Dick Cheney, John Kerry ra giải thích. Luôn giúp các em đạt được điều tốt nhất nhưng nếu có rủi ro xảy ra thì hãy kiên nhẫn điều chỉnh với tấm lòng rộng mở và từ từ tìm ra những phương cách thích hợp. Không có sai lầm nào không thể sửa chữa.




Cuối cùng, để vui vẻ, xin trích đoạn diễn văn của TT Bush khi dự lễ tốt nghiệp 2001 tại Yale với tư cách là khách mời đọc diễn văn cho các sinh viên sắp ra trường (commencement speaker) “…Đối với những ai ra trường với bằng danh dự và ưu hạng, tôi nói, rất khá. Và với những ai ra trường với điểm C, tôi nói, bạn giống tôi, bạn có thể làm Tổng thống Mỹ (cười và vỗ tay.) Bằng cấp của Yale rất đáng giá như tôi thường nhắc Dick Cheney (cười), một sinh viên đã theo học ở đây nhưng rời trường hơi sớm (cười). Bây giờ các bạn đã biết, nếu các bạn tốt nghiệp tại Yale các bạn sẽ làm Tổng thống Mỹ còn nếu các bạn bỏ ngang thì chỉ được làm Phó Tổng thống mà thôi (cười)…”




03 Học Bổng và Các Chương Trình Hỗ Trợ Tài Chánh




Ầu ơ ... Bống bống bồng bông
Lớn lên con phải cố công học hành
Học là học đạo làm người,
Con đừng lêu lổng kẻ cười người chê



Theo U.S. News & World Report năm 2004, 81% các sinh viên đại học tư được học bổng (scholarship) không hoàn trả lại. Do vậy các em học sinh, bất kể thu nhập của gia đình ra sao cũng nên nộp đơn xin học bổng dể làm giảm một phần nào gánh nặng cho cha mẹ. Nếu các em học sinh nộp đơn nhiều chỗ, vấn đề không phải là xin được hay không, mà là sẽ xin được bao nhiêu.

Các loại học bổng và hỗ trợ tài chánh thường được chia ra như sau:

Need-based scholarship

Need-based scholarship dành cho con em các gia đình có lợi tức thấp và thường đòi hỏi sinh viên phải giữ được điểm trung bình thỏa đáng nếu không sẽ bị ngưng lại. Need-based scholarship còn được gọi Financial Aid hay Grant và thường do chính phủ liên bang hay chính phủ tiểu bang tài trợ.

1. Từ quỹ liên bang

Sau khi học sinh nộp đơn FAFSA cho liên bang, nếu được chấp thuận các em sẽ nhận được một khoản tiền trợ cấp từ chính quyền liên bang gọi là Pell Grant dựa vào lợi tức gia đình, học phí tại trường đang theo học, tổng số người trong gia đình và tổng số thành viên học đại học để quyết định.

Số tiền được trợ cấp thay đổi tùy theo mỗi sinh viên. Nếu khó khăn hơn các em có thể được thêm khoản thứ hai gọi là FSEOG (Federal Supplemental Educational Opportunity Grant.)

Bắt đầu từ năm 2006 có một khoản bổ sung thêm $750 – $1300 (ACG) và $4000 (SMART.)

2. Từ quỹ tiểu bang

Ở California thường được gọi là Cal Grant gồm 3 loại A, B, C. Tùy theo sinh viên đang theo học tại trường nào mà sinh viên sẽ được Cal Grant tương ứng. Nếu sinh viên học tại đại học tư, Cal Grant sẽ nhiều hơn Pell Grant. Dĩ nhiên theo học một trường ngoài tiểu bang thường sẽ không có Cal Grant. Do vậy cần cân nhắc quyết định học một trường trong hay ngoài tiểu bang.

Merit-based scholarship (dựa trên tài năng)

Trong khi need-based scholarship dành cho sinh viên thuộc gia đình có lợi tức thấp thì Merit-based scholarship dựa trên “chất xám” – nghĩa là dựa theo học lực, tài năng (nghệ thuật, thể thao, âm nhạc) không kể đến lợi tức gia đình. Loại học bổng này thường được một số đại học dùng để chiêu dụ nhân tài. Họ dùng nó như một thứ “giảm giá” (discount) nhằm mời mọc tân sinh viên mà họ muốn có trong thành phần các sinh viên tương lai.

Số tiền dành cho học bổng này khá lớn, có khi lên tới full scholarship (học bổng toàn phần). Thành ra đây thực sự là nguồn tài chánh giúp cho sinh viên con nhà khá giả có thể vào đây học miễn phí hoặc chỉ đóng một phần học phí. Do vậy giảm nhẹ gánh nặng cho gia đình.

Một số học bổng khác

Ngoài hai loại chính kể trên còn có một số học bổng từ các nhà phân phối sản xuất như Coca Cola, Best Buy, Target, Mc Donald … hoặc một số tổ chức như Bill and Melinda Gates Foundation. UC Berkeley cũng nổi tiếng về các loại học bổng dành cho tân sinh viên. UC San Diego có loại học bổng $5000/năm trong 4 năm được cấp cho sinh viên tiêu dùng chứ không đưa trực tiếp vào trường trả tiền học phi. Muốn có được những học bổng này phải lui tới văn phòng cố vấn nhà trường (counselor's office) và thường xuyên nghe ngóng, trao đổi với bạn bè hay tìm tòi trên Internet.

Trong các loại học bổng nêu trên, một thiểu số đươc dành cho sinh viên gia đình lợi tức thấp nhưng đa số không lệ thuộc vào điều kiện lợi tức gia đình nên các sinh viên thuộc gia đình có lợi tức cao cũng xin được. Thêm vào đó các học bổng này luôn luôn có điều kiện giới hạn do vậy phải đọc kỹ xem mình có đủ tiêu chuẩn (qualify) không.

Ngoài những học bổng lớn còn có những học bổng nhỏ hơn của các tổ chức hay cá nhân địa phương và dĩ nhiên số tiền cho cũng ít hơn. Đừng bỏ sót cái nào, hãy nộp đơn tất cả vì vào thời gian đó lớp học của năm cuối cũng đã nhàn nhã hơn.

Những điều cần lưu ý khi nộp đơn

Các học bổng thường rất cạnh tranh, khi nộp đơn phải làm việc tận tâm để có thể thành công. Dưới đây là một số hướng dẫn:

1. Làm việc thiện nguyện & Lãnh đạo chỉ huy

Hầu hết các học bổng đòi hỏi về những hoạt động đóng góp lợi ích cho cộng đồng (volunteer.) Những sinh hoạt trong trường học được ưa thích thường là National Honors Society, PTSA, viết báo trường, thể thao, văn nghệ. Bên ngoài phạm vi trường học có các bệnh viện, nursing home, các chương trình ủng hộ cho người cùi tại Việt nam... Hãy sinh hoạt sớm ngay từ lớp 9 để có cơ hội giữ những vị trí lãnh đạo nổi bật hẳn lên trên các học sinh khác. Hãy chủ động tìm vị trí lãnh đạo trong các đơn vị tham gia sinh hoạt.

2. Luận văn

Thông thường những bài luận văn đòi hỏi viết khoảng 500 chữ. Có thể dùng một phần luận văn viết cho đại học rồi sửa lại, hoặc dùng một bài luận văn đã gửi cho học bổng này và sửa sang rồi gửi cho học bổng khác, nhớ bổ túc thêm cho đỡ tốn thời giờ. Dùng như thế là hợp pháp vì tất cả là sở hữu của mình. Nên kể chuyện, nêu nhiều thí dụ, đừng lý luận. Không viết chung chung, phải viết về cái “tôi” để họ biết sự trưởng thành và suy nghĩ của mình ra sao.

3. Thư giới thiệu

Việc chọn thầy cô giáo viết thư giới thiệu (recommendation) khá quan trọng. Hãy kiếm người gần gũi, hiểu đươc những cố gắng của mình. Thông thường học sinh hay chọn thầy cô English nhưng thật ra những thầy cô về History, Spanish … cũng rất tốt vì ít học sinh nhờ nên họ đầu tư nhiều công sức vào đó và thư giới thiệu hoàn hảo hơn. Một học sinh mùa học đầu (first semester) bị điểm C Spanish nhưng tới mùa học sau cố gắng hơn được điểm A. Em nhờ cô giáo này viết thu giới thiệu, hy vọng cô sẽ nêu ra cố gắng của mình. Các đại học muốn tìm những em biết cố gắng vươn lên. Kết quả em được một học bổng học tập và làm việc vào mùa hè tại Tối cao Pháp viện. Với kết quả này em trở thành ứng cử viên hấp dẫn của các học bổng và các đại học.

4. Chứng minh mình xứng đáng

Học bổng nào đặt ra cũng muốn người thụ hưởng phải là người có hoạt động tích cực và đặc biệt nhất trong số những ứng viên nộp đơn. Học bổng càng danh tiếng, số tiền càng nhiều thì đòi hỏi càng khắt khe hơn. Do vậy ngay từ lớp 9 phải tham gia nhiều vào các giải viết văn, thơ cũng như những science fair, hay chứng tỏ tài năng về võ nghệ, âm nhạc ... Lên lớp 10 hay 11 hễ thấy có cơ hội được đi White House hay Quốc Hội là nộp đơn ngay, đừng chần chừ. Đồng thời nên nộp thêm một số giấy tờ quan trọng mà mình có, chẳng hạn như các bằng khen, tham dự lớp hè tại đại học, các huy chương, thành tích đặc biệt ...

Tóm lại có rất nhiều học bổng đang chờ được trao tặng. Các em nên tận dụng những nguồn tài chánh dồi dào sẵn có đó. Xin hãy nộp đơn nhiều chỗ để có nhiều cơ hội hơn và tiết kiệm tiền cho cha mẹ – bất kể gia đình có thu nhập như thế nào. Nếu chịu khó nộp đơn, các em sẽ nhận được một số học bổng cho mình. Cuối cùng xin đừng quên rằng học bổng tự nó không phải chỉ có giá trị tiền mặt mà còn làm cho sinh viên có thế giá hơn khi xin vào các chương trình Tiến sĩ hay xin các học bổng khác.

02 Warren Buffett và Giáo Dục Nhân Bản




Người còn thì của cũng còn
Miễn là nhân nghĩa vuông tròn thì thôi





Người ta biết nhiều về Bill Gates, người giàu nhất thế giới ($50 tỷ) nhưng người giầu thứ nhì thế giới Warren Buffett ($44 tỷ - 2006) ít được biết đến hơn. Bằng cách bỏ qua những lý thuyết kinh tế vĩ mô cũng như cung cách suy nghĩ của các nhà kinh doanh thị trường chứng khoán tại Wall Street, Warren Buffett ứng dụng kiến thức học được từ giáo sư Benjamin Graham tại đại học Columbia để làm giầu bằng cách tìm những công ty có tiềm năng phát triển cao, giá cổ phiếu còn rẻ rồi đầu tư vào đó kiếm lời.

Warren Buffett là một nhà đầu tư thị trường chứng khoán tài ba số một của thế giới. Ông là CEO của Berkshire Hathaway Inc., một “công ty mẹ” chuyên mua bán và điều hành các “công ty con.” Các công ty con này bao gồm các nhà máy sản xuất bánh kẹo (See’s Candy), đồ gỗ (R.C Willey), Coca Cola, bảo hiểm (Geico), credit card (American Express), báo chí (Washington Post) ... và hàng trăm công ty khác.

Tổng công ty Berkshire Hathaway Inc. hiện có khoảng 50,000 nhân viên. Nếu một người, vào năm 1965, bỏ $10,000 vào Standard & Poor’s 500 thì tới nay người đó được $500,000 (50 lần) nhưng nếu người đó bỏ vào các công ty của Warren Buffett thì tới nay người đó được $50 triệu (5000 lần.) Người ta nói rằng khi Warren Buffett mua bất kỳ cổ phiếu nào thì cổ phiếu đó sẽ lên giá 10% và cái ngày ông chết đi chắc chắn thị trường chứng khoán sẽ chao đảo tụt giá.

Vào tuần trước Warren Buffett đã loan báo trao tặng 5 hội từ thiện $37 tỷ trong tổng tài sản $44 tỷ của ông. Đây là món tiền lớn nhất được trao tặng cho từ thiện trong lịch sử Mỹ cũng như lịch sử thế giới. Phần lớn ($31 tỷ) trong số $37 tỷ này đi vào Bill & Melinda Gates Foundation để giúp nhân loại cải tiến giáo dục và y tế.

Mới đây qua một cuộc đấu giá online trên ebay, một thương gia Mỹ gốc Trung hoa tên Yongping Duan ở Palo Alto đã trả $620,100 chỉ để được ăn trưa với Warren Buffett. Số tiền này sẽ được bỏ vào quỹ từ thiện Glide Foundation để giúp những người nghèo và vô gia cư tại San Francisco. Vậy từ cuộc đời của Warren Buffet, nhìn từ khía cạnh giáo dục học đường và trên hết là giáo dục nhân bản chúng ta học được gì?



Đam mê

Đam mê của ông là tiền. Ngay từ khi còn nhỏ, trong khi các bạn vô tư chơi đùa thì trong đầu óc em bé Warren Buffett đã suy nghĩ làm sao trở nên giầu có. Lúc 6 tuổi em đi bán soda từng nhà để kiếm tiền cho dù có Bố là một dân biểu liên bang và cũng là một nhà đầu tư ngân hàng. Sau đó em và các bạn dùng toán tìm cách thắng trong các trận cá độ đua ngựa bằng cách bán những lời khuyên. Dĩ nhiên họ bị cấm vì không có bằng hành nghề (license.)

Lúc 11 tuổi em mua cổ phiếu của Cities Service với giá $38 một cổ phiếu nhưng bị xuống giá còn $27 và khi nó lên lại tới $40 thì vội vàng bán chạy làng. Tuy nhiên thời gian sau lại liên tục lên giá tới $200 một cổ phiếu. Cậu học được một bài học nhớ đời: phải kiên nhẫn trong đầu tư.

Lớn tuổi hơn, cậu đầu tư vào đất đai, quản lý những đường dây giao báo, đặt máy pin-balls tại những tiệm hớt tóc để kiếm tiền cho đến khi vào đại học. Thế nên không ai có thể phủ nhận sức mạnh của đam mê. Nếu con cái chúng ta có đam mê gì thì không nên ngăn cản mà cần giúp chúng thực hiện những đam mê đó. Tất cả nên được tôn trọng và thông cảm của cha me.



Đặt mục tiêu cao nhất nhưng sẵn sàng thay đổi

Warren Buffett tốt nghiệp Trung học khi 17 tuổi và quyết định lao ra làm việc kiếm tiền. Cha cậu tuy rất buồn phiền về quyết định này nhưng kiên nhẫn khuyên bảo và cuối cùng Warren Buffett cũng đã nghe lời nộp đơn học tài chánh và thương mại (finance and commerce) tại UPenn (University of Pennsylvania), một trong những đại học tư nổi tiếng nhất về thương mại trong hệ thống 8 trường Ivies.

Học được 2 năm cậu phá bĩnh bỏ học ngang (chê thầy cô dở hơn mình!) rồi chuyển trường (transfer) về quê nhà học tiếp một năm tại University of Nebraska. Cậu tốt nghiệp đại học chỉ trong 3 năm, lúc đó cậu 20 tuổi.

Sau đó cậu nộp đơn xin học MBA của Harvard Business School nhưng bị chê là “quá trẻ.” Tổng thống Bush vào Harvard Business School lúc 27 tuổi và tốt nghiệp MBA lúc 29 tuổi. Như vậy Warren Buffett nộp đơn lúc 20 tuổi là rất trẻ và thực ra chưa trải qua nhiều thực tế. Chương trình MBA ở những đại học tiếng tăm thường đòi hỏi các ứng viên phải dày dạn kinh nghiệm. Ban Tuyển sinh của Harvard Business School vì vậy đã ân hận về quyết định để lọt lưới một nhân tài vĩ đại có thể quảng cáo cho tên tuổi trường.

Khám phá ra thần tượng của mình là giáo sư Benjamin Graham, một học giả lỗi lạc về Kinh tế học đang giảng dạy tại Columbia University, cậu nộp đơn học Master of Economics (Cao học Kinh tế) tại đây sau khi đã bị Harvard từ chối. Và sự chọn lựa này là bước quyết định thành công của cậu trên đường sự nghiệp.

Bài học này cho ông một kinh nghiệm: Nhắm tới mục tiêu cao nhất nhưng sẵn sàng thay đổi, sẵn sàng mở rộng cửa cho những giải pháp và lựa chọn khác. Tại đây sau một năm học cậu ra trường với điểm A+ của giáo sư Benjamin Graham, một điểm A+ duy nhất ông cho sinh viên trong suốt cuộc đời giảng dạy của vị giáo sư gốc Do thái này.



Sống đơn giản và đàng hoàng

Tuy là một người giầu có nhưng ông sống trong một căn nhà chỉ trị giá $31,500 đã mua 40 năm nay. Mặc quần áo bình thường, ăn uống bình dân như mọi người, ông uống Coca Cola, ăn kẹo See’s Candy và ít người biết ông là người giầu thứ nhì thế giới. Trong khi những CEO khác sống đế vương với tiền lương nhiều triệu Mỹ kim, vô số tiền thưởng cùng nhiều phụ cấp lỉnh kỉnh khác, ông khiêm tốn lãnh lương của một CEO hàng đầu thế giới với mức lương $100 ngàn một năm.

Tính ông đâu ra đó. Cho là cho, mượn là mượn. Có lần con gái ông, Susie, hỏi mượn $20 tiền mặt để trả tiền chỗ đậu xe trong phi trường và ông đã yêu cầu cô phải ký check trả lại mình. Vào những năm của thập niên 1990, suy thoái đạo đức của các ngành tài chính trên đà gia tốc. Ông luôn luôn lên án việc gian lận sổ sách chứng từ. Để ngăn ngừa tình trạng trên, ông chọn những cộng sự viên có đạo đức làm việc quanh mình. Đặt “thành thật và liêm khiết” lên hàng đầu khi phỏng vấn tuyển chọn nhân viên, ông luôn tự hỏi, “Nếu người này làm con dâu hay con rể mình thì mình có đồng ý không?”

Ông cũng xác nhận vai trò hàng đầu của đức tính thành thật, "Trong việc tìm kiếm nhân sự làm việc quý vị nhắm vào 3 phẩm chất: thành thật, thông minh và nhiệt tình. Và nếu người đó không có phẩm chất thứ nhất (thành thật) thì 2 phẩm chất còn lại kia (thông minh, nhiệt tình) sẽ giết quý vị.”

Hành động và lý tưởng của ông chắc chắn sẽ mãi mãi là một tấm gương sáng cho nhiều bạn trẻ. Ngày xưa các cụ thường nói, “Vi phú bất nhân” và quan điểm này nếu áp dụng với ông Warren Buffett có lẽ phải được xem xét lại. Warren Buffett nhận định rằng, “Nhiều người giầu có sống cô đơn không có bạn bè vào cuối đời. Sự thành công thực sự được đo lường bằng số người kính trọng và yêu mến mình.” Có phải vì vậy mà ông đã dâng tặng phần lớn tài sản mình cho từ thiện không?



-------------------------------------------------------------------------------------------------

* Phần lớn tiền của các tỷ phú được đầu tư vào thị trường chứng khoán nên giá trị thay đổi mỗi ngày. Thứ hạng cũng thay đổi liên tục. Giá trị nêu ra trong bài là của năm 2006

Tuesday, 1 January 2008

73 Khi Con Cái Thông Minh




HÌNH BÌA ÑÖÏNG HOÀ SÔ THOÂNG BAÙO ÑÖÔÏC NHAÄN VAØO STANFORD
Taïm dòch: Vì taát caû nhöõng laàn baïn thöùc khuya laøm baøi cho ñuùng; thöïc haønh, luyeän taäp vaø laøm vieäc heát söùc mình; hoïc baøi vì baïn yeâu thích, chöù khoâng phaûi vì noù seõ coù trong baøi thi; chaáp nhaän ruûi ro thay vì theo con ñöôøng deã daøng; trao taëng thôøi giôø, taøi naêng vaø nhieät tình cho coâng vieäc thieän nguyeän; chuùng toâi voã tay hoan hoâ baïn

Ông Ba năm nay 30 tuổi, có đứa con gái 5 tuổi tên Kim rất nhanh nhẹn, cô luôn làm cho ông bất ngờ về những con số. Một hôm, nhân ngày sinh nhật anh của Kim, ông đùa vui nói chơi với con gái, “Hôm nay là sinh nhật anh Hai con, thằng này già khằng vì nó gấp đôi tuổi con.” Nghe vậy cô con gái vừa cười vừa nhẩn nha nói, “Ba cũng già quá đi vì tuổi của Ba gấp 6 lần tuổi con nhưng 20 năm nữa thì Ba “trẻ lại” chỉ còn gấp 2 lần tuổi con mà thôi.”

Hai năm sau ông qua thành phố kế bên để mua một cái tủ lạnh với giá on sale, khi ra ngoài đứa con gái nằng nặc nói rằng nếu cộng chung cả thuế ông đã bị tính hớ hơn $5, nhìn lại hoá đơn ông mới biết thành phố này thuộc County khác có mức thuế cao hơn thành phố nơi ông đang ở nên dẫn đến sự sai biệt này.

Rõ ràng, khi xuất hiện những con số trong đời sống, não bộ của Kim bắt đầu nắm bắt những thông tin này và không ngừng hoạt động. Ông ghi nhận tài năng và để ý theo dõi con. Kim thích ngồi đếm những đồng xu và im lặng xếp chúng vào với nhau. Hơn nữa em còn nhớ rõ số điện thoại của dì Út, cậu Năm và nhắc nhở Ba em về ngày sinh nhật của bà Nội.

Kim là một thí dụ về một học sinh sớm xuất hiện năng khiếu tính toán. Tương tự những cá nhân thông minh khác, Kim có những dấu hiệu bẩm sinh trổi vượt của mình. Ở những đứa trẻ như vậy, người ta nhận thấy có nhiều mức độ biểu lộ khác nhau và nhận thức được những dấu ấn này phải là một bước khởi đầu cần thiết. Một số tài năng trẻ đã không được chú ý đúng mức hay tệ hại hơn đã bị bỏ qua.

Nếu muốn năng khiếu được khám phá và nuôi nấng thích hợp thì gia đình và trường học trước tiên phải biết ghi nhận những dấu hiệu này.

Dấu hiệu của một đứa trẻ thông minh

Đa số những học sinh nhận được điểm cao tại trường học hay trong các kỳ thi (SAT, ACT … ) là những em tài năng nhưng không phải là tất cả vì một số em nhờ vào siêng năng đã thành công trong học vấn. Ngược lại một số em thực sự có tài năng nhưng do môi trường gia đình (cha mẹ coi thường học hành) hay trường học (không được xếp đúng lớp) nên chỉ vẫn ở tình trạng trung bình và không được lưu ý. Do vậy, để khám phá ra được những tài năng toán học, một số thông tin cần được thu thập thêm trước khi đi đến một kết luận rõ ràng. Sau đây là một số dấu hiệu:

– Tính tò mò cao về những thông tin có liên quan đến những con số

– Hiểu biết và ứng dụng khái niệm toán học một cách nhanh nhẹn

– Khả năng trừu tượng hoá và nhận thức tương quan toán học cao

– Giải quyết một cách sáng tạo những vấn đề liên quan đến tính toán không theo một khuôn mẫu định sẵn hay nói rõ hơn không dựa vào những “bài toán mẫu.”

Theo phương pháp phân tích thống kê, người ta thấy rằng tỷ lệ những em có tài năng tính toán và có tiềm năng trở thành một học sinh giỏi chiếm khoảng 3% dân số.

Khó khăn của những em thông minh

Khi con cái có khả năng cao về học vấn, điều cần phải làm là cho chúng vào được những chương trình có tính thách đố tương xứng với tài năng nhưng vẫn giữ được tuổi thơ, vẫn được rong chơi và thụ hưởng niềm vui của cuộc sống như những em bình thường khác.

Trên thực tế, điều này không dễ dàng. Những em có khả năng cao thường hay ôm đồm nhiều việc và rất thích cạnh tranh với những em khác nên dành phần lớn thời gian cho công việc học hành mà quên việc hưởng thụ những niềm vui nho nhỏ của tuổi trẻ.

Ngoài ra các em còn gặp khó khăn trong lựa chọn nghề nghiệp vì có khả năng hoàn thành tốt được nhiều ngành học nên thường lưỡng lự. Người ta thấy có em chọn (và học xuất sắc) ba chuyên ngành (majors) khi theo học chương trình bậc Cử nhân.

Một trong những khó khăn đầu tiên của các em thông minh là không biết chọn môn gì khi lên đại học vì có thể thành công trong mọi ngành theo học. Bill Gates là một thí dụ, khi vào Harvard năm thứ nhất, cậu coi mình như một sinh viên Pre-Law (dự bị Luật) nhưng lại lấy những lớp Toán cao cấp nhất dành cho sinh viên năm đầu đại học và những lớp khác về Kinh tế Thương mại do muốn làm giầu. Ý tưởng muốn mở công ty phần mềm Microsoft bắt nguồn từ Paul Allen, một người bạn cùng trường trung học nhưng trên Bill Gates hai tuổi.

Không phải các em học giỏi đều thành công trong lãnh vực nghề nghiệp. Những nghiên cứu từ danh sách National Merit Scholars (Watley 1969), Presidential Scholars (Kaufmann, 1981) và các chương trình giáo dục tài năng (Kerr, 1985) đã xác nhận điều đó.

Một số việc phải làm khi có con thông minh

1. Tại trường tiểu học và trường phổ thông cấp 2 (trung học đệ nhất cấp)

– Khuyến khích sự tập trung làm việc như hoàn thành những dự án ở học đường

– Cho đọc sách về các danh nhân trong nhiều lãnh vực nghề nghiệp

– Để ý xem tài năng hay kỹ năng ở lãnh vực nào có vẻ nổi bật

2. Trung học

– Hạn chế những sinh hoạt ngoại khoá quá ôm đồm và chỉ tập trung vào vài hoạt động ưu tiên có lợi ích nhất.

– Cho quan sát thực tế và theo chân những nhà chuyên môn (Luật sư, Bác sĩ, Khoa học gia … ) để ghi nhận hoạt động của những ngành nghề định theo. Nên để các em suy nghĩ và lựa chọn ngành nghề chúng yêu thích.

– Khuyến khích em thăm các đại học và nhất là thăm ngành nghề định theo.

3. Đại học

– Thảo luận với cố vấn nhà trường về những ngành nghề định theo và ghi danh theo học lớp về chọn nghề

– Cẩn thận khi chọn lớp, đừng lấy quá nhiều chuyên ngành.

– Có kế hoạch ngắn hạn và dài hạn.

Điều quan trọng nhất là nên cộng tác với nhà trường khi họ xếp em vào những chương trình đặc biệt dành cho các tài năng. Với hệ thống tìm kiếm nhân tài của Hoa kỳ, chắc chắn những em học sinh giỏi sẽ có cơ hội toả sáng. Phụ huynh nên nghe theo khuyến cáo của họ.

Ngoài ra một số em có tài năng về một số lãnh vực chuyên môn khác như Viết văn thơ, vẽ, âm nhạc, nấu ăn hay thể thao … không được thảo luận trong bài viết này.

Nữ sinh thông minh

Mặc dù sống tại Hoa kỳ là nơi quyền bình đẳng nam nữ được thực hành, những em nữ sinh giỏi cũng thường cảm thấy mình không thể hiện được đầy đủ tài năng. Các em tuy có GPA cao hơn nhưng lại thường có điểm của các kỳ thi (SAT, ACT, MCAT, LSAT … ) thấp hơn các em nam sinh tài năng khác. Ngoài ra các em nữ thường dè dặt không lấy nhiều lớp Toán và Khoa học. Kết quả là cơ hội về ngành nghề trở nên hạn hẹp hơn (ngoại trừ 2 ngành Y khoa và Luật khoa.) Những em nữ sinh này sau đó trở thành người vợ và người mẹ, cả hai thiên chức này càng khiến họ rớt lại đằng sau so với những nam đồng nghiệp khác.

Để có thể thành công hơn, các nữ sinh thông minh cần mạo hiểm lấy thêm lớp khó và hiểu được những rào cản đi tới thành công của họ. (Smart Girls, Gifted Women (Kerr, 1985).)

Trong việc giáo dục những đứa con thông minh, khôn ngoan nhất vẫn là cho chúng học đầy đủ những môn phổ thông, cộng tác với nhà trường trong các chương trình dành cho tài năng, tìm một chương trình nhiều thách đố và hãy để chúng có tuổi thơ bên cạnh những bạn bè cùng trang lứa. Cuối cùng, mục đích cao nhất của giáo dục tài năng là chuẩn bị cho các em thành con người tử tế, có một nghề nghiệp như ý muốn và có được sự vui thích khi thực hành những nghề nghiệp đó.

72 Mua Sắm Đồ Chơi Cho Con Cái




Năm 1949, Peter Hodgson đang thất nghiệp và nợ nần, ông tham dự một buổi tiệc trong đó chất cao su nhân tạo được mang ra tạo những hình dạng khác nhau giải trí cho mọi người. Một tia sáng loé ra trong đầu, ông đi vay $147 mua bản quyền và tung ra thị trường sản phẩm nổi tiếng Silly Putty. Khi ông mất đi 28 năm sau, người ta tính cứ $1 vốn ông đã làm ra được $1 triệu lời. Kể từ đó các thương gia theo nhau nhảy vào kỹ nghệ đồ chơi mong làm giầu. Họ đa dạng hoá sản phẩm phục vụ các em khiến cha mẹ phải lúng túng hơn khi lựa chọn.

Trong các dịp lễ như Noel, nhiều người thường băn khoăn khi phải quyết định mua đồ chơi cho con cháu. Một câu hỏi quen thuộc hay được đặt ra: bằng cách nào có thể chọn đúng đồ chơi vừa làm vui lòng, vừa khuyến khích óc tò mò và trí tưởng tượng của con em?

Theo một công trình mới đây của Nhóm Nghiên cứu Lợi ích Công Cộng Hoa kỳ (U.S. Public Interest Research Group) thì tuy mong muốn đồ chơi mang lại lợi ích nhiều cha mẹ đã mua cho con những đồ chơi nguy hiểm mà không ngờ được. Trong số 15 đồ chơi phát ra âm thanh được thu thập một cách ngẫu nhiên thì 12 thứ (80%) có tiếng ồn lên tới 100 decibels. Nếu một em chơi với đồ chơi đó hơn 15 phút liên tục thì thính giác có thể bị ảnh hưởng.

Và như vậy việc lựa chọn đồ chơi cho con cái nên được dựa vào một số tiêu chuẩn sau:

An toàn

Gần Giáng sinh năm 2005, em bé hai tuổi Kenny Sweet đã chết do nuốt phải hai mảnh đồ chơi có từ trường mang tên Magnetix của anh mình. Đây là một sản phẩm dẫn đầu thị trường lúc đó và đã được vào danh sách ứng viên của “Đồ chơi trong năm.” Ba tháng sau, liên tiếp 27 vụ tương tự xảy ra, các em phải vào bệnh viện giải phẫn ruột mới được cứu sống và đồ chơi này sau đó bị thu hồi. Điều ngạc nhiên là ngay cả vào Giáng sinh năm đó người ta vẫn đặt đồ chơi Magnetix này dưới chân cây thông mà không biết rằng có thể nguy hại đến tính mạng con em.

Yếu tố an toàn là điều phải nghĩ đến đầu tiên khi mua đồ chơi. Mỗi năm có khoảng 150 ngàn em chấn thương do bị cắt chảy máu, điện giật hay nghẹt thở vì bỏ đồ chơi vào miệng.

Thêm vào đó, càng ngày càng có nhiều đồ chơi Trung Quốc không đạt tiêu chuẩn an toàn do có chì hoặc những hoá chất tai hại khác trong sơn. Mặc dù chính quyền liên bang có những tiêu chuẩn về an toàn đồ chơi nhưng cha mẹ vẫn nên kiểm soát lại trước khi mua mang về nhà. Một điều quan trọng nữa là hãy coi xem đồ chơi này có bị gọi thu hồi hay không?

Đừng mua những loại cấu tạo từ nhiều mảnh nhỏ khác nhau hay có góc cạnh sắc bén. Những đồ chơi có dây dài hơn 30 cm cũng nên coi chừng vì có thể quấn quanh cổ của con em. Ngoài ra, đồ chơi nên vững chắc, không dễ vỡ khiến các em dẫm chân lên chảy máu.

Có tính cách giáo dục cao

Diana Huss Green, người sáng lập Parents’ Choice Foundation – một tổ chức giúp cha mẹ trong việc lựa chọn những sản phẩm như đồ chơi, đĩa nhạc, sách báo … với mục đích kích thích sự phát triển nơi trẻ em đã xác định, “Những đồ chơi tốt có nhiều sức mạnh, chúng có nhiều ảnh hưởng … Một đồ chơi tốt không đưa ra những câu trả lời; nó kích thích những câu hỏi và đưa ra những vấn đề cần giải quyết.”

Các em nên được học hỏi ngay cả trong những hoạt động giải trí. Thị trường Mỹ có nhiều sản phẩm giúp các em biểu lộ chính mình và khám phá thế giới chung quanh. Trước khi mua đồ chơi phụ huynh thường tự hỏi đồ chơi này dạy con cái mình điều gì?

Một đồ chơi tốt thường thoả mãn một trong những đòi hỏi như sau:

– Mở rộng chân trời kiến thức hay kích thích sự suy nghĩ, lý luận

– Xây dựng thực hành một số kỹ năng như khéo tay, kích thích óc quan sát.

– Giáo dục về môi trường, cộng đồng, thế giới, lịch sử, vi tính …

Tuy nhiên, tính giáo dục cao nhất của đồ chơi là phụ huynh chơi chung với con và trở thành người bạn thân của chúng. Một số nhà giáo dục đã cảnh báo: nếu cha mẹ không làm bạn với con mình thì sẽ có người khác thay thế và cha mẹ sẽ không biết người khác đó tốt hay xấu. Không đồ chơi nào tự nó có thể thay thế được vai trò làm bạn của cha mẹ đối với con em.

Theo ý thích của con cái

Đồ chơi cho dù có mang tính giáo dục cao, kích thích phát triển trí thông minh nhưng nếu các em không chơi, đem cất vào tủ, thì rõ ràng phụ huynh đã không thành công trong chọn lựa.

Một đồ chơi đúng nghĩa phải được các em thích thú và thu hút sự chú ý của các em. Sự vui thú trong lúc chơi rất cần thiết để các em cân bằng với những hoạt động đôi khi căng thẳng tại học đường. Khi các em chơi với bạn, phụ huynh có dịp quan sát và ghi nhận ý thích của các con. Dĩ nhiên nếu em tỏ ra thích thú với một loại đồ chơi nào đó thì chắc chắn em sẽ vui khi cha mẹ mua quà này cho chúng.

Phần lớn cha mẹ dựa vào bản năng – nhờ quan sát thực tế hằng ngày – họ biết con cái muốn gì. Một em thích sưu tập khủng long chắc sẽ không thích những đồ chơi về voi hay chó. Tương tự một em thích xe hơi sẽ không thích máy bay. Con trai không thích đồ chơi của con gái và ngược lại, con gái không thích đồ chơi dành cho con trai.

Cuối cùng xin để ý đến khoảng cách giữa hai thế hệ, không phải những đồ chơi ngày xưa phụ huynh mơ ước ngày nay con cái đều yêu thích. Mỗi thế hệ có những ý thích riêng.

Thích hợp với lứa tuổi

Đồ chơi đúng với lứa tuổi kích thích sự sáng tạo và trí tưởng tượng. Một em 5 tuổi phải chơi với đồ chơi dành cho các em 10 tuổi thường dễ nổi nóng vì bị thách đố quá đáng. Có khi những đồ chơi cho trẻ em lớn tuổi hơn có thể khiến các em nhỏ tuổi bị thương tổn. Ngược lại một em lớn tuổi chơi đồ chơi của em nhỏ tuổi hơn thường dễ mau chán và mất hứng thú.

Nên đọc kỹ ghi chú ngoài bìa hộp về lứa tuổi và tuân theo những chỉ dẫn này.

Hợp túi tiền

Không hẳn những đồ chơi đắt tiền là sẽ được yêu thích. Có trường hợp sau khi cha mẹ mua đồ chơi đắt tiền về đứa con chỉ chơi với cái hộp đựng bên ngoài mà không tha thiết với sản phẩm bên trong. Một số đồ chơi được quảng cáo ầm ĩ trong các dịp lễ nhưng không thu hút sự chú ý của các em một cách lâu dài. Phụ huynh có thể mua những sản phẩm nóng bỏng này nhưng đừng coi đó như thứ duy nhất để mua. Trên thị trường thường có nhiều sản phẩm mang tính giáo dục và sáng tạo cao mà lại rất thích hợp với túi tiền.

Một số trang nhà (website) hữu dụng

Những thông tin về đồ chơi hay những sản phẩm có thể dùng như quà tặng càng ngày càng được cung cấp nhiều trên Internet. Có rất nhiều tổ chức phi chính phủ theo dõi và thu lượm những thông tin từ các khách hàng để phổ biến cho công chúng.

Phụ huynh có thể vào những trang dưới đây để tham khảo:

– Parents’ Choice Fall 2007 Toy and Audio Awards

– Dr. Toy’s 100 Best Children’s Products for 2007

– The National Parenting Publication Awards

– Toy Portfolio 2007 Platinum Awards

Nếu quý vị phụ huynh vì lý do an toàn không muốn mua đồ chơi Trung quốc, đây là website một số đồ chơi được làm ở Hoa kỳ như www.ustoyco.com, www.usmadetoys.com

Niềm vui của các em khi nhận quà cũng là niềm vui của phụ hunh. Nhìn các em cười đùa mở quà có lẽ là một trong những hạnh phúc lớn lao của các bậc làm cha mẹ. Tuy nhiên phụ huynh cần một chút thận trọng, cân nhắc khi mua quà để bảo đảm con em có một món đồ chơi an toàn, thích thú và có tính giáo dục cao.

71 Du Học, Một Khuynh Hướng Toàn Cầu




Đi cho biết đó biết đây
Ở nhà với Mẹ biết ngày nào khôn?
Vẫy vùng nam, bắc, tây, đông
Bõ công Cha Mẹ vun trồng nuôi anh

Tình hình sinh viên du học toàn thế giới

Sau thời gian sa sút chung vì vụ khủng bố 9/11, năm 2007 được đánh dấu bằng sự gia tăng đáng kể số lượng sinh viên du học trên thế giới. So sánh với năm 2006, con số này gia tăng được 8%. Lớp học hiện nay đa quốc gia giống như một phiên họp của Liên Hiệp Quốc!

Để có một dẫn chứng tổng quát, chương trình MBA của Stanford – một trong những chương trình hàng đầu của thế giới – có 45% sinh viên đến từ hơn 60 quốc gia khác.

Các sinh viên du học thường tìm kiếm một hệ thống giáo dục mạnh và nói tiếng Anh là ngôn ngữ thông dụng nên có khuynh hướng chọn Hoa kỳ và sau đó là Anh quốc. Ngoài ra, một số sinh viên du học khác cũng mong muốn du học Úc không những vì các trường đại học tại đó tốt mà cũng vì dễ dàng xin chiếu khán nhập cảnh hơn Hoa kỳ và Anh quốc.

Sau nhóm dẫn đầu Mỹ, Anh, Úc là “nhóm giữa” gồm Đức, Pháp và thứ ba là Nhật, Canada, Tân Tây Lan. Nhóm mới nổi có thể kể là Trung hoa, Mã lai, Tân gia ba (Singapore.)

Bộ Ngoại giao các nước thường coi sinh viên du học như những cầu nối về chính trị và kinh tế. Khi họ muốn có một quan hệ tốt hơn, họ sẽ tạo ra học bổng để gây ảnh hưởng, không những với sinh viên du học mà còn cả với cha mẹ – vốn là những quan chức chính phủ nữa.

Ngoài ra một số sinh viên tài năng thường ở lại quốc gia du học làm việc và do vậy mang về cho nước chủ nhà một nguồn lợi vô giá về trí thức mà nước chủ nhà không có đủ.

Các chương trình về Quản trị Kinh doanh được các sinh viên du học đặc biệt ưa chuộng. Các ngành liên quan đến điện toán và kỹ sư được sinh viên Ấn độ và Nigeria chú ý trong khi sinh viên Nhật thích ngành thương mại và sau đó là các ngành nhân văn nghệ thuật.

Các sinh viên Đức tìm kiếm những trường đại học an toàn, có ban quản trị phục vụ tốt và có tiếng về ngành nghề định theo nên tiết kiệm được khá nhiều tiền bạc. Trong khi đó các sinh viên Trung hoa chú ý nhiều hơn đến tên tuổi của đại học nên phải trả học phí đắt đỏ hơn cho những trường nổi tiếng này. Các sinh viên Nhật trái lại thường dựa vào kinh nghiệm của sinh viên đi trước và những cựu sinh viên này cổ động cho trường họ đã theo học.

Sinh viên thường dựa vào thân nhân tại quốc gia du học để có được sự hỗ trợ mạnh mẽ và lâu dài về mặt tinh thần cũng như vật chất. Điều này giải thích được lý do sinh viên Trung hoa du học nhiều tại những quốc gia có đông Hoa kiều như Nhật, Mỹ, Úc …

Ngôn ngữ quyết định khá lớn nơi đến của du học sinh. Trong khi Đức quyến rũ những sinh viên từ các quốc gia Đông Âu (ảnh hưởng từ thời còn Đông Đức) thì Pháp thu hút sinh viên từ các cựu thuộc địa cũ ở Phi châu như Ma rốc, An giê ri, Tuy ni di. Vùng Quebec nói tiếng Pháp của Canada thì lại thu hút được sinh viên đến từ Pháp.

Quốc gia có nhiều sinh viên đi du học thế giới là Trung hoa và Ấn độ. Trong đó Trung hoa có số lượng sinh viên ra nước ngoài học tập đông đảo nhất. Họ đi du học nhiều nhất tại Nhật, kế đến là Mỹ và Úc. Sinh viên Ấn độ đến Mỹ cao nhất rồi sau đó mới tới Úc và Anh

Sinh viên du học tại Mỹ

Theo bản báo cáo Open Doors 2007 của Viện Giáo dục Quốc tế thì số lượng sinh viên trên thế giới du học tại Mỹ gia tăng 3.2% trong năm 2007 lên tới 583 ngàn sinh viên trong năm học 06 – 07 vừa qua. Vụ khủng bố 9/11 dẫn tới những khó khăn xin nhập cảnh Hoa kỳ và số lượng sinh viên xin nhập học cứ giảm dần nhưng nay đang trên đà trở lại bình thường.

Tuy các trường đại học Mỹ vẫn giữ vai trò thống trị, nhiều đại học khác trên thế giới cạnh tranh mở rộng cánh tay thu nhận sinh viên du học bằng các học bổng hậu hĩ. Và do vậy, các trường đại học Mỹ ngày càng cảm thấy áp lực mạnh mẽ hơn từ những quốc gia khác, nhất là sau vụ 9/11. Sự cạnh tranh giữa các đại học tạo tư thế thuận lợi cho các sinh viên trên thế giói. Họ có thể đi du học dễ dàng hơn – nhất là trong bối cảnh đồng tiền Mỹ kim xuống giá.

Ấn độ vẫn dẫn đầu với gần 84 ngàn sinh viên (tăng 10%) và đã đứng đầu 6 năm liền về số lượng sinh viên du học Hoa kỳ. Sinh viên Ấn độ thông minh và học hành đàng hoàng. Trái với nhiều quốc gia khác có số lượng sinh viên bậc Cử nhân cao, sinh viên Ấn độ theo học bậc Cao học và Tiến sĩ nhiều hơn với tỷ lệ là 71.1%! Họ đặc biệt nổi tiếng trong lãnh vực kỹ thuật thông tin (information technology) và làm việc đông đảo tại Silicon Valley.

Đứng thứ nhì là Trung hoa với gần 68 ngàn sinh viên (tăng 8%) và thứ ba là Nam Hàn với hơn 62 ngàn (tăng 6%.) Trong số 10 quốc gia có số lượng sinh viên du học đông đảo nhất thì Nam Hàn là quốc gia có tỷ lệ sinh viên du học Hoa kỳ tính trên đầu người cao nhất. Như vậy sự thành công của “con rồng” Nam Hàn không phải là ngẫu nhiên mà đã được tính toán.

Tính theo ngành nghề, các sinh viên nước ngoài đến Hoa kỳ học Quản trị Kinh doanh 18%, Kỹ sư 15%, Khoa học (Vật lý, Hoá, Sinh) 9%, Toán và Thảo chương 8% …

Các sinh viên du học đã đóng góp cho kinh tế Hoa kỳ $14.5 tỷ qua những chi tiêu về học phí cũng như ăn ở và các khoản lặt vặt khác. Bộ Thương mại Mỹ thống kê rằng lợi tức từ giáo dục đứng hạng thứ năm về dịch vụ và 66% nguồn tài chánh này đến từ ngoài nước Mỹ.

Trong 20 trường có nhiều sinh viên du học nhất người ta thấy các tên tuổi như USC, UPenn, Columbia, New York University, UCLA, Harvard, Boston, UT Austin, Stanford …

Sinh viên du học tại California

California là tiểu bang có nhiều sinh viên đến du học nhất với số lượng là 78 ngàn.

USC là đại học nhận nhiều sinh viên du học nhất Hoa kỳ. Cùng với 4 trường khác là UCLA, Stanford, UC Berkeley, Santa Monica College đã tạo thành 5 trường đứng đầu tiểu bang về số lượng sinh viên quốc tế. Sinh viên đến từ Ấn độ, Trung hoa, Nam Hàn, Nhật bản và Đài loan dẫn đầu danh sách du học tại California và mang về cho tiểu bang $2.2 tỷ.

Sinh viên Việt nam

Sinh viên trong nước du học tại Úc đông đảo nhất với số lượng 8,559 người tính đến tháng 9 năm 2007. Tuy sinh viên Việt nam du học Nhật bản với số lượng ít hơn (2119) nhưng lại đứng hạng thứ năm trên tổng số sinh viên du học ở Nhật.

Số sinh viên Việt nam du học Hoa kỳ là 6036 nhưng chỉ đứng hạng 20. Trong số này, 68.3% theo học bậc Cử nhân, 22.3% theo các chương trình Cao học và Tiến sĩ.

Lãnh sự quán Mỹ tại Sài gòn cho biết số sinh viên, học sinh du học Mỹ chiếm một nửa tổng số các sinh viên, học sinh Việt nam du học trên thế giới trong năm 2006.

Khuynh hướng toàn cầu hoá

Nhiều trường ở Âu châu gia tăng sự cạnh tranh bằng cách giảm thiểu chương trình Cử nhân xuống còn 3 năm nhằm quyến rũ sinh viên nước ngoài. Các trường đại học Mỹ đua nhau lấy sinh viên quốc tế vào trường mình vì mục đích kinh doanh (sinh viên du học trả tiền nhiều hơn) cũng như muốn tạo ảnh hưởng và tiếng tăm ra thế giới. Số chỗ còn lại cho sinh viên bản xứ do vậy ít đi, họ bị cạnh tranh mãnh liệt, có khi đành phải quay ra các nước khác du học.

Người Mỹ gốc Hoa đã phàn nàn các đại học Mỹ thiên vị sinh viên đến từ Trung hoa lục địa. Một số chương trình MBA nổi tiếng đã lấy nhiều sinh viên Trung hoa lục địa hơn là sinh viên con em Hoa kiều vốn nổi tiếng là giỏi giang và năng động. Tuy vậy các trường biết rằng thu nhận sinh viên MBA từ Trung hoa sang tuy có học không giỏi nhưng về lâu dài sẽ giữ vị trí lãnh đạo cao tại Trung hoa. Nhờ vậy tiếng tăm và ảnh hưởng của trường được quảng bá sâu rộng hơn. Các đại học, giống như một tổ chức kinh tế, họ nghĩ đến quyền lợi của họ trước.

Về mặt tích cực, toàn cầu hoá trong giáo dục kích thích các sinh viên nước chủ nhà chăm học hơn nhưng cũng có khả năng họ sẽ bị đẩy xuống các đại học ít tiếng tăm vì các sinh viên du học thường giỏi giang và chịu khó. Các trường đại học không còn là độc quyền của công dân sở tại nữa. Sinh viên quốc tế đang ngồi học tại các giảng đường và thực tập trong các phòng thí nghiệm danh giá nhất thế giới. Điều này cũng làm nổi lên một câu hỏi đầy lo lắng của công dân các nước đã phát triển, “Con em chúng ta rồi sẽ ngồi học ở đâu?”