Tuesday, 1 January 2008

22 Bill Gates và Đam Mê




Đời người như cánh phù du
Sớm còn tối mất công phu lỡ làng
Chữ nhẫn là chữ tương vàng
Ai mà giữ được thì càng sống lâu




Mỗi người trong chúng ta có nhiều cách nhìn về Bill Gates, từ một người cống hiến từ thiện hiệu quả cho tới một tỷ phú về phần mềm. Bài viết này chỉ nhằm theo dõi việc học hành của Bill Gates và đam mê về “phần mềm” là những yếu tố chính giúp ông thành công trên con đường sự nghiệp.



Sự quan trọng của quyết định chọn trường

Sinh trưởng trong một gia đình trí thức và giầu có năm 1955. Cha là luật sư, mẹ hoạt động trong lãnh vực giáo dục và ngân hàng. Nhận thấy con mình thông minh trổi vượt, nhất là các môn Toán và Khoa học, cha mẹ của Bill Gates quyết định cho con theo học trường trung học Lakeside thuộc tiểu bang Washington, một trường dành cho nam sinh, rất có tiếng về kỷ luật và đào tạo tài năng.

Vào năm 1967 học phí một năm tại Lakeside ($5000) đắt gấp ba lần học phí tại đại học Harvard ($1760.) Quyết định chọn trường này tuy tốn kém nhưng rõ ràng là một quyết định quan trọng, ảnh hưởng đến toàn bộ tương lai của Bill Gates. Thật vậy, nếu không có Lakeside sẽ không có Bill Gates.



Lakeside: Điểm khởi hành

Vào lúc đó, máy tính còn rất đắt tiền. Câu lạc bộ “Các bà mẹ” của trường Lakeside quyết định quyên góp tiền để mua giờ cho học sinh học sử dụng máy tính qua công ty General Electric. Một nhóm nhỏ gồm Bill Gates, Paul Allen (hơn Bill Gates hai tuổi) và một vài học sinh khác đã bỏ ăn bỏ ngủ say mê nghiên cứu máy tính bê trễ việc học hành. Nhưng thay vì cấm cản, nhà trường cho các em tự học lớp Toán để có thể tham gia nhiều hơn vào chương trình này. Thế rồi chỉ sau vài tuần, nhóm đã dùng hết thời lượng được dự trù cho một năm học. Hết tiền, chương trình đành phải tạm ngưng.

Khoảng 6 tháng sau, trường Lakeside kiếm được môt công ty khác – Computer Center Corporation – cung cấp giờ cho học sinh dùng máy tính với giá rẻ. Thế là nhóm lại lao vào nghiên cứu, mày mò tất cả các chương trình cài đặt trong máy và họ trở thành những kẻ xâm nhập (hackers) vào hệ thống bảo vệ để “ăn gian” thời giờ dùng máy và thậm chí làm cho máy tính ngưng hoạt động (crash.) Hậu quả là nhóm bị cấm dùng máy trong vài tháng nhưng ngược lại công ty rất thán phục những “phá hoại” của họ.

May mắn thay, hệ thống máy của Computer Center Corporation sau đó bị tấn công. Bill Gates được công ty “dĩ độc trị độc” thuê phục hồi lại các chương trình nhằm làm cho máy hoạt động bình thường trở lại (debugs) và được trả công bằng thời gian dùng máy vào ban đêm ngay tại cơ sở đầu não.

Nhờ vậy Bill Gates có thể vào các chương trình cài đặt mà lúc trước không được quyền cũng như nắm bắt được những thông tin mà ca ngày làm việc xong còn để lại. Nhưng việc này chỉ kéo dài được hơn một năm, vào tháng 3/1970 công ty thua lỗ và đóng cửa. Bài học về các ngôn ngữ lập trình Bill Gates học được ở đây thật vô giá do được thực hành trên máy tính và ngay tại cơ sở trung tâm. Thực hành bao giờ cũng là một phương pháp học tập hiệu quả.



Những “công ty” đầu đời

Sau khi Computer Center Corporation đóng cửa, cả nhóm phải quay qua kiếm chỗ khác để nghiên cứu phần mềm (software) tức là các chương trình điều khiển máy tính. Họ vào đại học Washington xin viết phần mềm về trả lương cho nhân viên trường và lần đầu tiên họ được nhận tiền do các chương trình viết ra. Mục đích của làm việc chỉ là để học hỏi thêm.

Sau đó Bill Gates và Paul Allen mở công ty Traf-O-Data mà trụ sở đặt trong dorm (cư xá đại học) (!) của Paul Allen nhằm giúp Bộ Giao thông tiểu bang Washington đo lường số lượng xe cộ qua lại tại một điểm nào đó.

Khi Bill Gates học lớp 11, nhà trường thuê “công ty” viết chương trình giảng dạy cho Lakeside. Trong lúc các bạn lo học, họ vừa học vừa nghĩ cách làm tiền qua các phần mềm ứng dụng.



Những nét chính trong học hành

Tuy say mê công việc nhưng Bill Gates vẫn chăm chỉ học hành, có SAT là 1590 (tối đa 1600) rồi được nhận vào đại học Harvard. Trong thư giới thiệu thầy giáo đã viết, “…Về mặt tính toán, Bill Gates còn giải nhanh hơn cả giáo viên trong trường…”

Khi vào đại học Harvard, giống như khá nhiều sinh viên năm thứ nhất, Bill Gates chưa biết mình sẽ học chuyên ngành gì. Theo truyền thống gia đình Bill lấy một số lớp dự bị Luật (pre-law), một số lớp rất khó về Toán là lãnh vực mà Bill Gates vượt trội, một số lớp về Kinh tế Thương mại theo sở thích nhưng hoàn toàn không lấy một lớp nào về Computer Science (thảo chương.) Lúc này Bill Gates cũng giống như một số sinh viên năm thứ nhất khác chưa xác định được hướng đi rõ ràng và vẫn coi năm đầu như một bước thăm dò cho sự nghiệp tương lai. Sự lưỡng lự bắt đầu do có nhiều lựa chọn!



Nhìn xa trông rộng: Máy tính cá nhân

Vào 03/1974, chip 8080 của Intel ra đời – nhỏ hơn và nhanh hơn. Trước đó máy tính to thù lù như những cái tủ và mục tiêu phục vụ chỉ là những cơ quan công quyền hay các nhà máy lớn. Tuy vậy nhờ vào chip Intel 8080 họ linh cảm rằng, những con chip nhỏ này rồi sẽ tạo ra máy tính cá nhân dạng nhỏ và bùng nổ đi xuống tận các gia đình hay các cơ sở thương mại địa phương.

Bill Gates cùng với nhóm bạn cũ tại Lakeside trong nhiều tháng thử chế tạo một máy vi tính kích thước nhỏ dùng con chip 8080 nhưng đã thất bại vì cả nhóm chỉ chuyên môn về software tức là phần mềm hay còn gọi vui là “phần hồn.” Thế là hai chàng do không có “phần xác” (máy vi tính) nên bị bó tay không thể thử được “phần hồn” để coi xem máy hoạt động ra sao. Chỉ cần một bài toán đơn giản họ cũng biết mình sẽ làm tỷ phú nếu như các máy tính nhỏ này dùng phần mềm của mình.

Đánh hơi được cơ hội gần kề, Paul Allen quyết định bỏ ngang đại học Washington State dọn về gần Harvard để dễ dàng gặp Bill Gates và thúc giục Gates bỏ học chung nhau lập công ty phần mềm nhưng Gates vẫn còn chần chừ do tâm lý của người học giỏi là cái gì cũng phải chắc ăn và cũng vì gia đình Bill Gates lúc đó không ủng hộ ý tưởng bỏ học ngang.

Thế rồi vào 12/1974 một tin vui chợt đến với họ, chiếc máy tính nhỏ Altair 8800 (có kích thước tương đương một máy tính để bàn hiện nay) được thành hình bởi công ty MITS. Chính "chip" Intel 8080 tức là bộ vi xử lý (microprocessor) nhỏ lại đã giúp cho máy vi tính Altair ra đời.

Lúc đó những ai muốn dùng Altair phải viết chương trình cho vào máy để máy hoạt động. Đối với đa số người dùng thông thường, điều này là một trở ngại. Không phải ai cũng viết được chương trình nếu không là dân chuyên nghiệp. Yêu cầu có một phần mềm cho Altair trở nên cấp thiết. Không có phần mềm, máy vi tính chỉ dành cho những “chuyên gia” mà thôi.



Sáng lập đại công ty Microsoft năm 20 tuổi

Mặc dù chưa có gì trong tay, hai người gọi tới công ty và tuyên bố họ sắp hoàn thành một phần mềm cho Altair. Dĩ nhiên đây là lời nói dối. Và họ chia nhau vội vã bắt đầu viết. Sau 8 tuần Paul Allen hồi hộp mang phần mềm có tên là BASIC tới công ty MITS để chạy thử và rất may mắn đạt được kết quả như ý. Thế la MITS mua bản quyền này và hai người biết rằng thị trường phần mềm sẽ bùng nổ.

Thấy thời cơ đã chín mùi, Bill Gates bèn bỏ học Harvard năm 1975 để cùng với Paul Allen sáng lập ra công ty Microsoft (viết ngắn gọn của MICROcomputer SOFTware) lúc mới 20 tuổi. Quyết định bỏ học này cho tới nay vẫn làm Bill tiếc nuối nhưng nếu không thôi học, không đầu tư hết sức mình thì sẽ mất cơ hội. Có lẽ đây là một trong những quyết định quan trọng nhất của cuộc đời Bill Gates.



Cuộc đời đi học của Bill Gates cho chúng ta thấy rằng đầu tư vào giáo dục không bao giờ lỗ lã (chẳng hạn như cho con em học trường trung học đắt tiền.) Hơn nữa nên khám phá và khuyến khích những đam mê của con em thay vì ngăn cản vì có yêu thích công việc các em mới đạt được những kết quả cao nhất. Và cuối cùng, dẫu học trường đại học tốt như thế nào đi chăng nữa, thời cơ vẫn là yếu tố quyết định và việc bỏ học ngang – cho dù tại những đại học danh tiếng nhất không phải lúc nào cũng là một dấu hiệu xấu.

No comments: